TOÀ 
ÁN NHÂN DÂN                                  CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HÀ NỘI                                                  Độc lập - tự do - Hạnh phúc

số: 147/2008/KDTM - ST Ngày: 29/9/2008.

v/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Với Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có.

Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà : Bà Lưu Thị Bích Hường.

Các Hội thẩm nhân dân :   1/  Bà  Trử Thị Sửu.

  2/ Bà Phan Tú Lan.

Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Trần Thị Lan Anh - CBTA.

Ngày 29 tháng 9 năm 2008 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương   mại thụ lý số 75/2008/TLST - KDTM ngày 16 tháng 9 năm 2008 v tranh chấp hơp đồng mua bán điện. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 213/2008/QĐXX - KDTM ngày 22 tháng 9 năm 08 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty điện lực thành phố Hà Nội

Trụ sở tại: 69 Đinh Tiên Hoàng - Hoàn Kiếm - Hà Nội

Do ông Nguyễn Mạnh Đức - Phó trưởng phòng thanh tra làm đại diện theo uỷ quyền số1280 UQ/ĐLHN- P03Ngày 11/03/2008 của Giám đốc công ty (có mặt);

Bi đơn: Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn

Trụ sở theo ĐKKD tại: Số 13 - Thụy Khuê - Tây Hồ - Hà Nội.

Địa chỉ hiện nay tại: 201 Cầu Giấy - phường Quan Hoa - Cầu Giấy - Hà Nội Do ông Nguyễn Văn Nhung - Giám đốc công ty làm đại diện (có mặt).

Những người có quyền lợi và nghĩa vu liên quan:

Ủy ban nhân dân phường Nhân Chính

Trụ sở tại: Nhân Hoà - Nhân Chính - Thanh Xuân - Hà Nội

Do ông Ngô Đức Phiến - Cán bộ UBND phường theo Giấy ủy quyền số

46/GUQ ngày 22/9/2008 của Chủ tịch UBND  phường Nhân Chính (có mặt).

NHẬN THẤY

1.    Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/4/2008 và các ý kiến trong hồ sơ, nguyên đơn Công ty điện lực Hà Nội trình bày như sau:

Ngày 23/01/1995, ủy ban nhân dân xã Nhân Chính - huyện Từ Liêm (nay là Phường Nhân Chính - quận Thanh Xuân) có ký Hợp đồng số 186 để mua điện nông nghiệp qua công tơ tổng với sở điện lực Hà Nội, Ngày 02/5/1996, ủy ban nhân dân xã Nhân Chính có ký hợp đồng kinh tế số 62 với Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn để giao cho Công ty quản lý các trạm biến thế và mạng lưới điện đã có trên địa bàn xã. Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn chịu trách nhiệm đảm bảo cung cấp điện đến từng hộ dân; Thu tiền điện của dân và thanh toán cho Chi nhánh điện; Lập phương án cải tạo mạng lưới điện và đóng góp 50% chi phí cải tạo; Kết quả tài chính phân chia theo đồng vốn đầu tư của mỗi bên.

Sau khi xã Nhân Chính được chuyển thành phường Nhân Chính thuộc quận Thanh Xuân, ngày 20/01/1999 Công ty điện lực thành phố; Hà Nội và Ủy ban nhân dân phường Nhân Chính có ký Hợp đồng mua bán điện số 008 - KD/TK. Nội dung hợp đồng quy định: Công ty điện lực thành phố Hà Nội bán điện qua công tơ tổng trạm biến áp để phục vụ sinh hoạt. Kể từ điểm đấu dây tại cột xuất tuyến lưới điện hạ thế về đến các hộ dùng điện là tài sản của bên mua điện. Bên mua điện chịu trách nhiệm quản lý an toàn phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Điện năng hàng tháng thanh toán theo chỉ số công tơ với mức giá 360đ/KWh. Tiền điện được thu hàng tháng tại trụ sở Điện lực sở tại. Sau hai đòi nợ quá hạn và quá ba ngày kể từ lần đòi thứ hai mà bên mua điện chưa thanh toán thì bên bán điện có quyền ngừng bán-điện cho đến khi bên mua thanh toán hết cáckhoản nợ. Hơp đồng có — hiệu lực kể từ ngày ký.

Quá trình thực hiện hợp đồng, bên mua điện đã thanh toán đầy đủ tiền điện đến hết tháng 7/2001. Nhưng khi Công ty điện lực Hà Nội thực hiện chủ trương xóa bán tổng tại địa bàn Nhân Chính để bán trực tiếp đến từng hộ dân thì phía người mua không thanh toán tiền điện từ tháng 8/2001 đến tháng 10/2002 là 666.123.726đ. Ngay khi phía người mua điện là Uỷ ban nhân dân xã Nhân Chính chậm thanh toán, Công ty điện lực đã tiến hành nhắc nợ và tổ chức các cuộc họp trao đổi về việc trả nợ. Tại cuộc họp ngày 16/05/2002, giữa các đại diện Công ty điện lực thành phố Hà Nội, ủy ban nhân dân phường Nhân Chính và Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn, ông Nguyễn Văn Nhung giám đốc Công ty xâv dưng điên và dich vụ phát triển nông thôn đã nhận trách nhiệm trả nợ số tiền điện từ tháng 08/2001 cho đến khi chấm dứt việc xoá bán tổng tại địa bàn hoàn thành.

Ngày 26/06/2002 Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn có công văn số 48/CV gửi Điện lực Thanh Xuân xin khất nợ và chịu lãi ngân hàng cho những ngày chậm trả.

Tại biên bản làm việc ngày 12/06/2003, giữa Công ty điện lực thành phố Hà Nội và đại diện Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn, ỡng Nhung đã xác nhận số tiền điện còn nợ là 666.123.726d.

Tại biên bản làm việc ngày 08/7/2004, giữa Công ty điện lực thành phố Hà Nội và đại diện Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn, ông Nhung đã cam kết trả số tiền điện còn nợ làm nhiều giai đoạn từ ngày 20/10/2004 đến ngày 20/7/2005. Nhưng trong thực tế, Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn không thực hiện cam kết, mặc dù Công ty điện lực thành phố Hà Nội đã nhiều lần gửi công văn yêu cầu và cử người đến công ty làm việc.

Nay Công ty điện lực thành phố Hà Nội đề nghị Toà án giải quyết buộc Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ tiền điện của địa bàn phường Nhân Chính từ tháng 08/2001 đến tháng 10/2002 là 666.123.726đ và khoản tiền chậm trả (tính từ ngày 26/06/2002 đến ngày 25/03/2008) theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 300.434.235đ. Tổng cộng là: 966.557.96lđ.  

2.  Bị đơn—Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn do ông Nguyễn Văn Nhung giám đốc công ty đại diện trình bày như sau:

Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn có nhận quản lý mạng lưới điện với ủy ban nhân dân phường Nhân Chính từ những năm 1994. Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn có nghĩa vụ xây dựng, cải tạo lưới điện cũ của xã Nhân Chính để bán điện cho từng hộ dân. Nguồn điện lấy từ công tơ tổng do ủy ban nhân dân phường Nhân Chính mua của Công ty điện lực thành phố Hà Nội. Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn thu tiền điện của các hộ dân và thay mặt cho UBND  phường thanh toán cho Công ty điện lực thành phố Hà Nội tiền mua điện đến hết tháng 7/2001 và còn tiếp tục bán điện cho dân đến tháng 11/2002. Số tiền điện từ tháng 8/2001 đến tháng 10/2002 là 666.123.726đ Công ty không thanh toán là do Công ty điện lực thành phố Hà Nội không hơp tác với Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn trong việc tiếp nhân cơ sở vât chất mà cổng ty đã đầu tư tại các địa bàn, trong đó có địa bàn phường Nhân Chính.

Ông Nguyễn Văn Nhung có đại diện cho Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn tham dự các cuộc họp và có các văn bản cam kết trả nợ như nguyên đơn đã nêu nhưng đó là việc nhận nợ có điều kiện, đã được ghi nhận tại cuộc họp ba bên ngày 16/5/2002. 

Đến nay, mặc dù chưa được nguyên đơn và UBND phường Nhân Chính giải quyết quyền lợi nhưng bị đơn vẫn tạm trả thêm 20.000.000đ vào ngày 15/9/2008. Bị đơn yêu cầu nguyên đơn và UBND phường Nhân Chính xem xét, thực hiện các ghi nhận tại Biên bản ngày 16/5/2002 để giảm bớt thiệt hại cho bị đơn vì các tài sản của bị đơn đã được đầu tư vào mạng điện của địa phương từ năm 1994 đến nay.

Đối với khoản tiền lãi của khoản nợ gốc bị đơn không đồng ý trả do đây không phải là việc mua bán. Đồng thời bị đơn yêu cầu bên liên quan phải có trách nhiệm thanh lý hợp đồng số 62 với bị đơn.

3.  Đại diện người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:

Ngay khi giao cho Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn quản lý và kinh doanh điện tại địa phương, ủy ban nhân dân phường Nhân Chính không thu tiền điện của dân. Quá trình kinh doanh Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn có đầu tư và cải tạo sửa chữa mạng lưới điện tại địa phương, nhưng hai bên chưa tiến hành quyết toán để phân định rõ tỷ lệ vốn góp và phần được hưởng của mỗi bên.

Khi thực hiện việc xóa bán tổng, Ủy ban nhân dân phường Nhân Chính đã tổ chức cuộc họp ba bên ngày 16/05/2002 để bàn giao nghĩa vụ thanh toán tiền điện trong giai đoạn cũ cho Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn thực hiện với Công ty điện lực thành phố Hà Nội. Trong thực tế Cổng ty xây dưng điên và dịch vụ phát triển nông thôn đã thu đẩy đủ tiền điện của dân. Đối với trạm biến áp và hệ thống cột, đường dây do Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn xây dựng hiện đã quá cũ nát và ủy ban nhân dân phường Nhân Chính không nắm được cụ thể.

Ủy ban nhân dân phường Nhân Chính không có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ 666.123.726đ và xác định Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn phải có nghĩa vụ thanh toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

4. Theo các tài liệu có trong hồ sơ, những người làm chứng trình bày:

Theo thoả thuận, ủy ban nhân dân phường Nhân Chính giao cho Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn thực hiện việc bán điện cho từng hộ dân và chịu trách nhiệm thu tiền điện và thanh toán cho Điện lực Thanh Xuân. Trong giá bán 600đ/KWh, ủy ban nhân dân phường Nhân Chính được hưởng 15đ/KWh để lấy chi phí cải tạo lưới điện. Nhưng trong thực tế ủy ban nhân dân phường chưa thu được bất cứ khoản tiền nào hoặc quyết toán với Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn về các phần đầu tư để xác định giá trị vốn góp của mỗi bên. Tiền điện của các hộ dân trong giai đoạn chưa xóa bán tổng, Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn đã thu hết nhưng chưa nộp lại đủ cho Công ty điện lực.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và căn cứ kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

Công ty điện lực thành phố Hà Nội là doanh nghiệp Nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý và phân phối điện trong địa bàn thành phố Hà Nội ký hợp đồng để bán điện cho ủy ban nhân dân xã Nhân Chính. Sau đó, ủy ban xã Nhân chính lại ký hợp đồng để giao cho Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn kinh doanh nhằm hưởng lợi nhuận. Nay có tranh chấp giữa các bên trong quá trình thực hiện các hợp đồng thì'đây là tranh chấp về mua bán hàng hóa được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong vụ án này, bị đơn là Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn có trụ sở tại quận Tây Hồ; Tòa án nhân dân quận Tây Hổ chưa được giao thẩm quyền để giải quyết vụ việc dân sự theo quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 29, Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 32 ngày 15/6/2004 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự để thụ lý, giải quyết vụ án là đúng với quy định của pháp luật.

Tại Biên bản làm việc ngày 08/7/2004 Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn cam kết thanh toán hết nợ vào ngày 20/7/2005, nhưng không thực hiện nên ngày phát sinh tranh chấp là ngày 21/7/2005. Ngày 13/01/2006 và ngày 07/12/2007 Công ty điện lực thành phố Hà Nội vẫn có công văn yêu cầu thanh toán. Vì vậy ngày 10/04/2008 Công ty điện lực Hà Nội có đơn khởi kiện là trong hạn 02 năm theo quy định của điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy:

Khoản tiền 666.123.726d mà nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả là khoản nợ phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế giữa bên bán là Công ty điện lực thành phố Hà Nội và bên mua là ủy ban nhân dân phường Nhân Chính, nhưng tại Biên bản cuộc họp ngày 16/05/2002, bên mua đã chuyển giao nghĩa vụ thanh toán cho người thứ ba là Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn. Bên bán là người có quyền đã chấp nhận việc chuyển giao, nên Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn được xác định là bị đơn.

Trẽn thực tế, Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn là người hiện đang quản lý tiền điện đã thu của dân. Vì vậy, căn cứ các quy định tại Bộ luật dân sự về nghĩa vụ dân sự và chuyển giao nghĩa vụ dân sự được quy đinh tại điều 280, 281, 290, 315 và điều 316 Bộ luật dân sự thị bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ 666.123.726đ cho bên bán là Công ty điện lực thành phố Hà Nội.

Đối với yêu cầu đòi lãi chậm trả của nguyên đơn: Do bị đơn đã nhận nợ với nguyên đơn nên theo quy định tại Điều 305 Bộ luật dân sự thì trong trường hơp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất SPWP do Ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm toán. Vì vậy, yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ và phù hợp với quy định: của pháp luật nên được chấp nhận.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn có yêu cầu đòi nợ gốc là 646.123.726 (vì ngày 15/8/2008 bị đơn đã thanh toán tiếp 20.000.000đ nợ gốc) và tiền lãi do chậm thanh toán từ ngày 26/6/2002 đến ngày xét xử sơ thẩm (29/9/2008) là 347.062.895đ. Cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn toàn bộ số tiền trên.

Bị đơn cho rằng chưa thanh toán cho nợ cho nguyên đơn là vì Công ty điện lực thành phố Hà Nội chưa giải quyết việc tiếp quản tài sản khi xoá bán tổng. Hội đồng xét xử thấy lý do này của bị đơn đưa ra là không có căn cứ chấp nhận, bởi lẽ bị đơn không xuất trình được tài liệu chứng minh giữa UBND phường và Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn đã quyết toán các phần đầu tư và kiểm kê tài sản khi tiếp quản mạng lưới điện.

Bị đơn còn yêu cầu nguyên đơn đối trừ số tiền mà bị đơn đã đầu tư xây dựng cải tạo mạng lưới điện và trạm biến áp tại phường Nhân Chính với số tiền là 942.925.988đ. Đối với yêu cầu này của bị đơn, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo việc bị đơn cỏ quyền yêu cầu phản tố và nồp tạm ứng án phí theo quy đinh của pháp luật, nhưng bị đơn không thực hiện. Vì vậy, không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết trong vụ án này.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: ủy ban nhân dân phường Nhân Chính không còn quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan đến khoản nợ tiền điện mà nguyên đơn khởi kiện bị đơn để yêu cầu thanh toán vì khoản tiền này đã được ba bên nhất trí chuyển giao nghĩa vụ để bị đơn thanh toán trực tiếp cho nguyên đơn từ ngày 16/5/2002. Đối với yêu cầu của bị đơn đề nghị người liên quan thanh lý hợp đồng với UBND  phường Nhân Chính thì bị đơn phải mang tài liệu để chúng tôi xem xét, thanh lý.

Xét ý kiến của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là đúng với thực tế khách quan, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với các quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Mặt khác, các tài liệu bị đơn nộp trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn xác nhận đều do bị đơn tự lập và chưa được cơ quan có thẩm quyền và bên liên quan công nhận nên Tòa án chưa có cơ sở xem xét, giải quyết yêu cầu thanh lý hợp đồng số 62 cho bị đơn. Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn có quyền khởi kiện việc thanh lý hợp đồng số 62 UBND phường Nhân Chính thành vụ án khác nếu bị đơn có đủ tài liệu chứng minh.

về án phí: Bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Hoàn lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 29, Điều 34, Điều 131, Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 280, 281, 290, 315 và điều 316 Bộ luật dân sự năm 2005;

Căn cứ Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về án, lệ phí Tòa án;

Căn cứ Thông tư liên tịch số 01 ngày 19/6/1997 hướng dẫn thi hành án về tài

sản.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty điện lực thành phố Hà Nội.

Buộc Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn phải thanh toán cho Công ty điện lực Hà Nội số tiền gốc là 646.123.726d (sáu trăm bốn mươi sáu triệu, một trăm hai mươi ba nghìn, bảy trăm hai mươi sáu đồng) và khoản tiền lãi do chậm trả theo lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước là 347.062.895đ (ba trăm bốn mươi bảy triệu, không trăm sáu mươi hai nghìn, tám trăm chín mươi lăm đồng). Tổng cộng gốc và lãi là: 993.186.621đ (chín trăm chín mươi ba triệu, một trăm tám mươi sáu nghìn, sáu trăm hai mươi mốt đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và bên được thi hành án có yếu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quá hạn do Ngân hàng nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án

2.  Về án phí: Công ty xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn phải chịu 27.860.000đ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Hoàn lại cho Công ty điện lực thành phố Hà Nội 10.000.000d tạm ứng án phí đã nộp tại Thi hành án dân sự

quận Cầu Giấy - TP Hà Nội theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 6514 ngày 18/4/2008.

3.   Dành quyền khởi kiện vụ án dân sự cho Công ty xây dựng điện và dịch vụ

phát triển nông thôn đối với UBND phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội về việc yêu cầu thanh lý hợp đồng số 2 ngày 2/5/1996 khi có yêu cầu.

4.                Bác các yêu cầu khác của đương sự.

5.                Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

TM HỘI ĐỔNG XÉT XỬ SƠ THẨM

 THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

Tên bản án

Bản án số: 147/2008/KDTM - ST Ngày: 29/9/2008. về Tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu 147/2008/KDTM - ST Ngày xét xử 29/9/2008
Bình luận án

Tiếng Việt

English