TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN    
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 373/2016/HSST
Ngày 22/11/2016
 

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Văn Luông.

Các Hội thẩm nhân dân: 1.  Bà Nguyễn Thị Kim Hoa;

                                             2.  Ông Phan Văn Cường.

Thư ký ghi biên bản phiên toà: Ông Ngô Nguyễn Minh Sơn, Thư ký Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà: Ông Nguyễn Thắng Lợi, chức vụ: Kiểm sát viên.

Ngày 22 tháng 11 năm 2016, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 421/2016/HSST ngày 04 tháng 11 năm 2016 đối với bị cáo: Nguyễn Xuân Ch., sinh năm 1993, tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Xóm 3, xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con của ông Nguyễn Xuân Thiện, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Quế, sinh năm 1969; bị cáo có 03 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1987 nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 27/8/2016, có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Đặng Thị Nhung, sinh năm 1993; địa chỉ: Số 13/10A, khu phố Tân Long, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Đặng Thị Tr., sinh năm 1996; địa chỉ: Số 13/10A, khu phố Tân Long, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, có mặt.
2. Nguyễn Xuân Hùng, sinh năm 1998, địa chỉ: Số 254/98, đường Âu Cơ, phường 9, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.
3. Lê Chí Thông, sinh năm 1969; địa chỉ: Số 12A/C1, khu phố 3, phường An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NHẬN THẤY:

Bị cáo Nguyễn Xuân Ch. bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 19 giờ, ngày 13/8/2016, Nguyễn Xuân Ch. đến chơi và ngủ lại tại phòng trọ của bạn gái tên Đặng Thị Nhung tại số 13/10A, khu phố Tân Long, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Khoảng 15 giờ ngày 14/8/2016 Ch. mượn xe mô tô của chị Nhung để đi tìm bạn mượn tiền, hẹn sẽ trả xe sau 20 phút. Sau khi được chị Nhung giao xe mô tô biển số 38C1-218.44, Ch. mở cốp thấy bên trong có số tiền 2.920.000 đồng cùng giấy tờ xe. Sau khi tìm không gặp bạn, Ch. mở cốp xe lấy số tiền 2.920.000 đồng để đánh số đề và tiêu xài. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, biết không trúng số đề, Ch. mang chiếc xe mô tô của chị Nhung cùng giấy tờ xe đi cầm cố ở tiệm cầm đồ Lê Thông do anh Lê Chí Thông làm chủ tiệm, tại số 12A/C1, khu phố 3, phường An Phú, thị xã Thuận An, được 6.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền cầm cố tài sản Ch. đã tiếp tục đánh số đề và thua hết. Khi chị Nhung gọi điện thoại, Ch. nói dối đang đang đi chơi ở Vũng Tàu, hẹn ngày hôm sau sẽ mang xe về trả. Sau đó Ch. tắt điện thoại, sống lang thang tại các tiệm internet ở khu vực phường An Phú. Do Ch. không mang xe về trả, chị Nhung và người nhà tổ chức đi tìm. Ngày 27/8/2016, khi phát hiện Ch. đang chơi game ở phường An Phú, thị xã Thuận An, chị Nhung đã trình báo cho Cơ quan công an phường Tân Đông Hiệp. Khi được mời về Công an phường làm việc, Ch. đã thừa nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của chị Nhung.

Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - trắng, biển số 38C1-218.44 trị giá 20.000.000 đông. Chiếc xe thuộc sở hữu của chị Đặng Thị Nhung, nhưng người đăng ký là Đặng Thị Tr., em gái của chị Nhung. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu hồi chiếc xe mô tô từ tiệm cầm đồ Lê Thông trả lại cho người bị hại, người nhà của bị cáo là Nguyễn Xuân Hùng đã bồi thường toàn bộ giá trị tài sản do bị cáo chiếm đoạt, bao gồm tiền cầm cố tài sản và tiền có trong cốp xe của chị Nhung. Chị Nhung và anh Lê Chí Thông không có yêu cầu gì thêm, anh Nguyễn Xuân Hùng không yêu cầu bị cáo hoàn lại tiền đã bồi thường.

Cáo trạng số 417/QĐ– KSĐT, ngày 04 tháng 11 năm 2016 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Ch. tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 140; Điểm b, h và p, Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Ch. với mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Thiệt hại trong vụ án đã được khắc phục, Đại diện Viện kiểm sát không đặt ra vấn đề trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY:

Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Xuân Ch. khai nhận: Bị cáo và chị Đặng Thị

Nhưng có quan hệ tình cảm với nhau, thỉnh thoảng bị cáo có đến chơi tại phòng trọ của chị Nhưng ở địa chỉ số 13/10A, khu phố Tân Long, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 19 giờ, ngày 13/8/2016, bị cáo đến chơi và ngủ lại tại phòng trọ của chị Nhung. Ngày hôm sau, khoảng 15 giờ bị cao hỏi mượn xe mô tô của chị Nhung để sử dụng, hẹn sẽ trả xe sau 20 phút. Quá trình sử dụng xe mô tô biển số 38C1-218.44 của chị Nhung, bị cáo đã chiếm đoạt số tiền 2.920.000 đồng chị Nhung cất giữ trong cốp xe, sau đó mang chiếc xe cầm cố lấy số tiền 6.000.000 đồng chơi số đề và tiêu xài. Sau khi sử dụng hết số tiền đã chiếm đoạt, bị cáo tắt điện thoại di động, sống lang thang ở khu vực phường An Phú, thị xã Thuận An.

Vào ngày 27/8/2016, trong lúc bị cáo đang chơi game ở phường An Phú thì bị chị Nhung phát hiện. Khi bị cáo thú nhận hành vi chiếm đoạt tài sản để tiêu xài, chị Nhung đã trình báo sự việc và nhờ Công an phường Tân Đông Hiệp xử lý.

Tài sản bị cáo chiếm đoạt của chị Nhung gồm 01 xe mô tô trị giá 20.000.000 đồng và số tiền 2.920.000 đồng. Trong giai đoạn điều tra, chị Nhung đã nhận lại toàn bộ tài sản do Cơ quan cảnh sát điều tra thu hồi giao trả lại, tại phiên tòa, chị Nhung đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đối với số tiền cầm cố tài sản, tiệm cầm đồ Lê Thông cũng đã nhận lại đầy đủ.

Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi mượn tài sản của người bị hại có giá trị 22.920.000 đồng, rồi bỏ trốn để chiếm đoạt do bị cáo thực hiện đã cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ vào tính chất hành vi và mức độ phạm tội của bị cáo, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An truy tố, đề nghị xét xử bị cáo theo quy định tại Khoản 1 Điều 140, Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự.

Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản có giá trị 22.920.000 đồng của người bị hại, đồng thời gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương. Hành vi phạm tội của bị cáo xuất phát từ ý thức tư lợi, nhằm thỏa mản sự đam mê cờ bạc, hầu hết số tiền chiếm đoạt bị cáo sử dụng vào việc chơi số đề. Bị đủ điều kiện để nhận thức được việc lợi dụng sự tin tưởng của người khác để chiếm đoạt tài sản là trái pháp luật, nhưng đã bất chấp hậu quả, hoàn thành tội phạm. Nhằm trừng phạt đồng thời cải tạo giáo dục giúp cho bị cáo thay đổi nhận thức, trở thành người có ích cho xã hội, cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án hình phạt tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện. Việc quyết định hình phạt đối với các bị cáo còn được xem xét trên cơ sở các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các đặc điểm nhân thân của bị cáo.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tôi không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội với các tình tiết giảm nhẹ gồm: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra bị cáo có tác động để người nhà bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người bị hại có đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó bị cáo đủ điều kiện hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm b, h, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46, Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo là người lao động, bản thân chưa có tiền án, tiền sự.

Về trách nhiệm dân sự: Toàn bộ thiệt hại trong vụ án đã được người nhà của bị cáo bồi thường khắc phục, người bị hại không yêu cầu bồi thường thêm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Xuân Hùng không yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền đã bồi thường, Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm dân sự của bị cáo.

Mức hình phạt do Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng tính chất hành vi và mức độ phạm tội, có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như các đặc điểm nhân thân của bị cáo, có  cơ sở chấp nhận.

Đối với hành vi chơi số đề của bị cáo: Theo lời khai của bị cáo, Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa làm rõ được nhân thân, lai lịch của đối tượng tham gia, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Ch. phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 140; Điểm b, h và p, Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Ch. 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 27/8/2016.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/2/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Xuân Ch. phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nơi nhận:                                                                     TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

- VKSND thị xã;                                                                 Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa

- Công an thị xã;

- Cơ quan THA thị xã;

- TAND tỉnh BD;

- Sở Tư pháp tỉnh BD;

- Bị cáo, những người tham gia tố tụng;

- Lưu HS; THA.HS; VP.                                                                       

                     Các Hội thẩm nhân dân                                                  Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

 

 

Nguyễn Thị Bửu Huệ              Nguyễn Thị Gái                                              Trần Văn Luông

 





 

                                             
     


 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 
 

BIÊN BẢN NGHỊ ÁN

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Văn Luông.

Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Gái và bà Nguyễn Thị Bửu Huệ.

Căn cứ vào các Điều 199 và 222 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;

Vào hồi      giờ      phút ngày 30 tháng 11 năm 2015 tại phòng nghị án, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã tiến hành nghị án đối với vụ án Phạm Ngọc Thọ bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo. Hội đồng xét xử thảo luận những vấn đề phải giải quyết như sau:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc Thọ phạm tội trộm cắp tài sản.
Kết quả biểu quyết 3/3.

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt: Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm g, h, p, Khoản 1, 2 Điều 46; Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Thọ ………… tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 20/8/2015.

Kết quả biểu quyết 3/3.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 và pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/2/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Phạm Ngọc Thọ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tuyên quyền kháng cáo theo quy định.

Kết quả biểu quyết 3/3.

Biên bản kết thúc vào lúc        giờ          phút cùng ngày.

Các Hội thẩm nhân dân                                    Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

 



                                                  Nguyễn Thị Bửu Huệ    Nguyễn Thị Gái                                     Trần Văn Luông


 
Tên bản án

Bản án số: 373/2016/HSST Ngày 22/11/2016 của TAND tỉnh Bình Dương

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án