QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 380/2014/DS-GĐT NGÀY 19/09/2014 VỀ VỤ ÁN ĐÒI NHÀ CHO THUÊ 

 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 19/9/2014 tại trụ sở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Đòi nhà cho thuê“ giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Đặng Quang Minh, sinh năm 1979; trú tại: số 5 Trần Xuân Soạn, phường Ngô Thì Nhậm, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

Bị đơn: Bà Chu Thị Hồng, sinh năm 1961; trú tại: số 33/23 phố Bồ Đe, tổ 3, phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Phạm Thị Thanh, sinh năm 1976; trú tại: số 3E, ngách 378/58 Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

2. Chị Nguyễn Quỳnh Hoa, sinh năm 1984;

3. Chị Nguyễn Hồng Nhung, sinh năm 1987;

4. Chị Nguyễn Minh Châu, sinh năm 1998; cùng trú tại: số 33/23 phố Bồ Đe, tổ 3, phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại tòa ông Đặng Quang Minh trình bày:

Ngày 21/4/2009 ông đã mua nhà đất của chị Hồng tại số 33, ngách 23, ngõ 118, tổ 3, phường Bồ Đe, quận Long Biên. Khi mua hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại phòng công chứng số 1A Nguyễn Khánh Toàn, quận cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Theo nội dung họp đồng nêu trên thì chị Hồng bán cho ông nhà và đất thuộc địa chỉ nêu trên. Đất có diện tích 24,76m2, trên đất có 01 nhà bê tông 2 tầng, diện tích xây dựng là 24,76m2 với giá 500.000.000 đồng. Nhà đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Chu Thị Hồng. Sau khi lập họp đồng xong bà Hồng cầm họp đồng về, ông đã đến nhà giao đủ cho bà Hồng 500.000.000 đồng tại nhà bà Hồng và lấy lại hợp đồng, bà Hồng đã viết biên bản giao nhà. Sau đó bà Hồng đã hỏi xin thuê nhà trog vòng 3 thàng để bà tìm chỗ khác và ông đã đồng ý. Khi cho bà Hồng thuê hai bên đã lập họp đồng thuê nhà. Họp đồng thuê nhà lập cùng ngày với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Theo nội dung hợp đồng thuê nhà: Thời hạn thuê là 3 tháng, tiền thuê nhà là 25.000.000 đồng. Từ khi cho thuê, bà Hồng chưa trả tiền thuê nhà trực tiếp cho ông tháng nào. Có một làn duy nhất bà Hồng trả cho ông 17.500.000 đồng qua bà Thanh là bạn của ông. Ông đã nhận đủ số tiền trên từ bà Thanh nên không yêu cầu gì đối với bà Thanh. Sau khi hết thời hạn cho thuê nhà, ông đã yêu cầu bà Hồng trả nhà đất rất nhiều lần nhưng bà Hồng không trả.

Nay ông đề nghị Tòa án yêu cầu bà Hồng trả lại nhà cho ông và buộc bà Hồng trả tiền thuê nhà cho ông từ tháng 4/2009 đến nay.

Theo biên bản lẩy lời khại tại tòa bà Hồng trình bầy. Bà không hề quen biết với ông Minh, chưa bao giờ ngồi bàn về việc vay mượn, mua bán hay thuê nhà với ông Minh. Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là do bà ký tại phòng công chứng số 1A Nguyễn Khánh Toàn, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội nhưng họp đồng đồng này là do anh Khanh (anh Khanh là công chứng viên) đưa cho bà ký tại phòng công chứng. Lúc đó vào khoảng hơn 17h, tại phòng công chứng mọi người đã nghỉ hết. Ông Minh là người không có nghề nghiệp nên không thể có một số tiền lớn như vậy để mua nhà của bà. Hợp đồng thuê nhà và các hợp đồng khác do bà Thanh lừa bà mới có được. Do quá tin tưởng bà Thanh nói là phó Giám đốc Phòng Tài nguyên Môi trường ở số 10 Đặng Dung, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội nên bà đã chủ quan mà ký. Bà không hề ký hợp đồng thuê nhà với ông Minh. Họp đồng thuê nhà mà ông Minh xuất trình tại Tòa án đúng là chữ ký của bà nhưng họp đồng này là do bà Thanh đưa cho bà, khi đưa họp đồng chưa viết chữ nào nhưng do tin tưởng bà Phạm Thị Thanh nên bà đã ký vào họp đồng thuê nhà.

Trước yêu cầu khởi kiện của ông Minh bà không đồng ý và bà không đồng ý hòa giải với ông Minh vì không mua bán, vay mượn với ông Minh. Việc ký họp đồng vay mượn giữa bà và bà Thanh chỉ là hình thức vay mượn tiền thế chấp bằng sổ đỏ chứ không có chuyện mua bán nhà. Việc lập họp đồng công chứng tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Khánh Toàn là không đúng với mục đích, nội dung yêu cầu về việc vay mượn tiền. Bà đã đưa cho con gái của bà là Nguyễn Thị Hồng Nhung 17.500.000 đồng trả tiền lãi cho bà Thanh. Con gái bà đã trả cho bà Thanh nên bà không có yêu cầu gì đối với chị Nhung.

Theo biên bản lấy lời khạỉ bà Thanh trình bầy: Bà và ông Minh có quan hệ làm ăn rất thân thiết với nhau. Bà là người đã giới thiệu cho ông Minh mua nhà của bà Hồng. Bà là người làm chứng việc ông Minh và bà Hồng giao nhận nhà cho nhau. Bà cũng đã ký vào phần người làm chứng trong biên bản bàn giao nêu trên. Việc bà Hồng thuê nhà của ông Minh là có thật. Bà đã có một lần nhận hộ ông Minh 17.500.000 đồng tiền thuê nhà bà Hồng trả cho ông Minh và bà đã trả lại cho ông Minh đủ số tiền này.

Chị Nhung trình bày: Mẹ chị (bà Hồng) đưa cho chị 17.500.000 đồng nhờ chị trả tiền lãi cho bà Thanh. Khi viết giấy biên nhận bà Thanh viết là trả tiền thuê nhà. Chị có gọi điện hỏi bà Hồng, bà Hồng nói với chị: cô ghi thế nào cứ để cho ghi. Chị khẳng định chị đã đưa cho bà Thanh 17.500.000 đồng. Khi chị đưa tiền cho bà Thanh có sự làm chứng của ông Lưu Viết Trình, ông Trình cũng ký với tư cách là người làm chứng vào giấy đó.

Năm 2009, chị có đưa cho mẹ chị một số tiền để mẹ chị sửa nhà nhưng chị không nhớ là bao nhiêu. Chị Nhung không yêu cầu gì về số tiền đã đưa cho bà Hồng.

Chị Hoa trình bày: Năm 2005 mẹ chị có sửa nhà. Chị đóng góp cho mẹ chị 60.000.000 đồng, số tiền này chị không có yêu cầu vì chị đã cho mẹ chị rồi.

Chị Châu trình bày: Chị không có đóng góp gì vào việc sửa nhà của mẹ chị vì chị còn nhỏ.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/2011/DSST ngày 22/2/2011, Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê của anh Đặng Quang Minh đổi với bà Chu Thị Hồng

Buộc bà Chu Thị Hồng củng các con là chị Nguyễn Quỳnh Hoa, chị Nguyễn Hồng Nhung, chị Nguyễn Minh Châu phải trả lại nhà cho anh Đặng Quang Minh.

Bà Chu Thị Hồng phải có trách nhiệm thanh toán tiền thuê nhà cho anh Minh là 532.500.000 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Minh: Ông Minh có trách nhiệm thanh toán trả bà Hồng giả trị sửa chữa là 1.000.000 đồng.

Ngoài ra, tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo cho cấc đương sự.

Ngày 05/4/2011, bà Hồng, chị Hoa, chị Nhung, chị Châu có đơn kháng cáo cho rằng: Trước ngày xét xử sơ thẩm, bà Hồng, chị Hoa, chị Nhung, chị Châu không nhận được bất kỳ thông báo hay giấy triệu tập nào của Tòa án cấp sơ thẩm; đến ngày 31/3/2011 mới nhận được bản án dân sự sơ thẩm theo đường burn điện.

Tại Quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn số 110/QĐPT ngày 09/6/2011, Tòa án nhân dân thành phổ Hà Nội nhận định:

“Theo các tài liệu có trong hồ sơ thì ngày 18/3/2011, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành tổng đạt trực tiếp bản án dân sự sơ thẩm số 01/2011/DSST, ngày 22/02/2011 của Tòa án nhân dân quận Long Biên cho bà Hồng, chị Hoa, chịNhung, chị Châu đã từ chổi không nhận bản án. Do không tổng đạt được nên cùng ngày, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thủ tục niêm yết công khai bản án dân sự sơ thẩm sẻ 01/2011/DSST ngày 22/02/2011 tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường Bồ Đe và tại nơi cư trú của bà Hồng, chị Hoa, chị Nhung, chị Châu.

Ngoải ra, bà Hồng, chị Hoa, chị Nhung, chị Châu không cỏ tài liệu chứng cứ chứng minh lý do chính đảng của việc khảng cảo quá hạn. Vì vậy, việc khảng cảo của bà Hồng, chị Hoa, chị Nhung, chị Châu là quả thời hạn quy định tại Điều 245 Bộ luật tổ tụng dân sự”, từ đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

Không chấp nhận khảng cáo quá hạn của bà Hồng, chị Hoa, chị Nhung, chị Châu đổi với bản án dân sự sơ thẩm sỗ 01/2011/DSST ngày 22/2/2011 của Tòa án nhân dân quận Long Biên.

Ngày 26/7/2011, bà Hồng có đơn đề nghị giám đốc thẩm và cho rằng thực tế là bà vay 500 triệu đồng của chị Phạm Thị Thanh với lãi xuất 5% tháng, việc ký họp đồng bán nhà và họp đồng thuê nhà chỉ là hình thức thế chấp nhà đất để đảm bảo khả năng thanh toán theo yêu cầu của chị Thanh. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà phải trả nhà cho anh Minh và còn phải trả hơn 500 triệu tiền thuê nhà là không đúng. Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm có nhiều vi phạm về thủ tục tố tụng. Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng cáo quá hạn của bà là không đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của mẹ con bà.

Quyết định kháng nghị số 193 ngày 29/5/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao đối với Quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn số 110 ngày 09/6/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 19/9/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận.Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện các trình tự, thủ tục để mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vắng mặt bị đơn là bà Chu Thị Hồng và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Phạm Thị Thanh, chị Nguyễn Thị Quỳnh Hoa, chị Nguyễn Thị Hồng Nhung và chị Nguyễn Minh Châu (những người này đều là các con của bà Chu Thị Hồng) của Hội đồng xét xử sơ thẩm ngày 22/2/2011 của Tòa án nhân dân quận Long Biên- tp Hà Nội là đúng quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, xét các văn bản và thủ tục niêm yết tống đạt bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Long Biên, tp Hà Nội thấy:

1. Về hình thức của “Biên bản không tổng đạt được” “Biên bản niêm yết”. Bản án sơ thẩm tại nhà riêng của bà Hồng và “ Biên bản niêm yết” bản án sơ thẩm tại Ủy ban nhân dân phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội cùng ngày 18/3/2011 thì đều là các tài liệu photo copy (bút lục số 113, 114, 115) nên không thể coi là tài liệu tố tụng hợp pháp.

2. Về thủ tục tống đạt bản án dân sự sơ thẩm thấy:

Theo “Biên bản không tổng đạt được” ngày 18/3/2011 thì bà Hồng và các con của bà từ chối không nhận bản án sơ thẩm. Nhưng trong biên bản lại không ghi lý do của việc bà Hồng và các con không nhận? Biên bản này cũng chỉ có dấu xác nhận của Ủy ban nhân dân phường mà không có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố và pong an phường là trái với quy định tại khoản 6 điều 152 Bộ luật tố tụng dân sự.

3. Về thủ tục niêm yết bản án sơ thẩm:

Theo các biên bản niêm yết ngày 18/3/2011 thì có 02 bản niêm yết, một là tại nơi cư trú của mẹ con bà Hồng và hai là tại Ủy ban nhân dân phường Bồ Đề. Chưa có niêm yết tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên theo quy định tại khoản 2 điều 154 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngoài ra, khi bà Hồng kháng cáo quá hạn. Tòa án đã không yêu cầu bà Hồng xuất trình chứng cứ chứng minh lý do của việc kháng cáo quá hạn mà đã quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn của bà Hồng.

Tại hồ sơ vụ án chỉ có “Quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn” là bản photo copy, không có bản chính nên văn bản này cũng không bảo đảm giá trị của văn bản tố tụng (bút lục 118).

Ngoài ra, trong quá trình gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm, bà Hồng còn xuất trình một số tài liệu để chứng minh và bảo vệ quyền lợi của mình...(những tài liệu này chưa được Tòa án các cấp xem xét).

Bởi các lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 193/2014/KN-DS ngày 29/5/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Hủy Quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn số 110/2011/QĐPT ngày 09/6/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 01/2011/DS-ST ngày 22/02/2011 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội về việc “Đòi nhà cho thuê” giữa nguyên đơn ông Đặng Quang Minh với bị đơn bà Chu Thị Hồng cùng 04 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Tên bản án

Bản án số 380/2014/DS-GĐT ngày 19/9/2014 về vụ án đòi nhà cho thuê

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English