QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 414/2014/DS-GĐT NGÀY 15/10/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 15/10/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do có kháng nghị số 68/2014/ KN-DS ngày 5/9/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 1545/2013/DSPT ngày 29/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phan Văn Dết, sinh năm 1941.

Trú tại: F1/6 ấp 6, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Cụ Trần Văn Sửu, sinh năm 1918 (chết năm 2007); người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ Sửu:

1. Ông Trần Văn Đời, sinh năm 1952; trú tại: nhà E14/15 ấp 5, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh;

2. Ông Trần Văn Quý, sinh năm 1955; trú tại: nhà E17/23 ấp 5, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh;

3. Bà Trần Thị Muồi, sinh năm 1955; trú tại: nhà E10/7 ấp 5, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh;

4. Bà Trần Thị Tơ, sinh năm 1959; trú tại: nhà C3/35 ấp 3, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh;

5. Bà Trần Thi Điễu, sinh năm 1962; trú tại: nhà E14/15B, ấp 5, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh;

6. Ông Trần Văn Đậu, sinh năm 1967;

7. Ông Trần Văn Dậu, sinh năm 1969;

Ông Đậu, ông Dậu cùng trú tại: nhà E14/19, ấp 5, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

8. Ông Trần Văn Cường, sinh năm 1972;

Trú tại: nhà E14/19, ấp 5, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

* Ông Trần Văn Quí, sinh năm 1955; là đại diện ủy quyền cho các ông Đời, bà Muồi, bà Tơ, bà Diễu, ông Đậu, ông Dậu và ông Cường.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh; trụ sở: E8/9A Nguyễn Hữu Trí, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Bà Nguyễn Thị Bảnh, sinh năm 1943;

3/ Ông Phan Văn Sơn, sinh năm 1972;

4/ Bà Phan Thị Sáng, sinh năm 1974;

5/ Bà Phan Thị Phụng, sinh năm 1977;

6/ Ông Phan Thanh Hoàng, sinh năm 1979;

7/ Ông Phan Hoàng Em, sinh năm 1982;

8/ Bà Hồ Thị Liễu, sinh năm 1972;

Cùng trú tại: nhà E1/6A ấp 6, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

9/ Bà Trần Thị Thoa, sinh năm 1964;

Trú tại: F1/6 ấp 6, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

10/ Ông Trần Văn Đời, sinh năm 1952;

11/ Bà Phạm Thị Ánh, sinh năm 1963;

12/ Ông Trần Công Sơn, sinh năm 1981;

13/ Ông Trần Hải Dương, sinh năm 1985;

14/ Bà Trần Thị Thùy Hương, sinh năm 1985;

15/ Ông Trần Minh Tâm, sinh năm 1987;Cùng trú tại: E14/15 B, ấp 5, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

16/ Bà Trần Thị Điễu, sinh năm 1962;

17/ Ông Trần Văn Đậu, sinh năm 1967;

18/ Ông Trần Văn Dậu, sinh năm 1969;

Cùng trú tại: nhà E14/15 B, ấp 5, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Nguyên đơn ông Phan Văn Dết trình bày: ông được Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 237 QSDĐ ngày 20/7/1993 đối với 7.350m2 đất thuộc các thửa 80, 295, 296 tờ bản đồ số 6, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó đất tại thửa 296 có diện tích 2.852m2/15.792m2. Vào năm 2001 ông Trần Văn Sửu tự ý liên liếp trồng tràm, cất chòi trên đất thuộc thửa 296 và từ đó hai bên phát sinh tranh chấp cho đến nay. Hiện tại trên đất vẫn còn tràm do ông Sửu trồng. Ông Sửu và vợ đã chết nên ông yêu cầu các con của ông Sửu là ông Trần Văn Quý, ông Trần Văn Đời, bà Tràn Thị Muồi, bà Trần Thị Tơ, bà Tran Thị Điêu, ong Tran Van Đậu, ong Tran Van Dậu va ong Tran Văn Cường có trách nhiệm giao trả lại phần đất có diện tích 2.852m2 thuộc thửa 296 tờ bản đồ số 6, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Ông không đồng ý hoàn lại cho các con ông Sửu giá trị tràm trồng trên đất tranh chấp.s D Ỳ Ngoài ra, ông Dết không yêu cầu gì khác.

Ông Trần Văn Quý là người thừa kế của ông Trần Văn Sửu, ông Quý đồng thời là người đại diện họp pháp của những người thừa kế của ông Sửu là ông Trần Văn Đời, bà Trần Thị Muồi, bà Trần Thị Tơ, bà Trần Thị Diễu, ông Trần Văn Đậu, ông Trần Văn Dậu, ông Trần Văn Cường trình bày: Phần đất ông Dết tranh chấp thuọc. thửa 762 tờ bản đồ số 4, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh do cha của ông là Trần văn Sửu trực tiếp canh tác từ trước giải phóng, kê khai đăng ký theo quy định và được Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 169 QSDĐ ngày 19/4/1995, thửa đất nêu trên có diện tích 5.499m2. Ông đại diện cho tất cả anh em của ông là những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Trần Văn Sửu không đồng ý trả đất theo yêu cầu của ông Dết. Ông, ông Trần Văn Đời, bà Trần Thị Muồi, bà Trần Thị Tơ, bà Trần Thị Diễu, ông Trần Văn Đậu, ông Trần Văn Dậu và ông Trần Văn Cường không yêu cầu ông Dết hoàn lại giá trị tràm trồng trên đất trong vụ án này, nếu sau này có tranh chấp các anh em của ông sẽ khởi kiện trong các vụ án khác. Ngoài ra, ông Quý đại diện cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn không có yêu cầu gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Bảnh, ông Phan văn Sơn, bà Phan Thị Sáng, bà Phan Thị Phụng, ông Phan Thanh Hoàng, ông Phan Hoàng Em, bà Hồ Thị Liễu, bà Phan Thị Thoa có người đại diện họp pháp là ông Phan Văn Dết trình bày: Ông Dết đại diện cho bà Bảnh, ông Sơn, bà Sáng, bà Phụng, ông Hoàng, ông Em, bà Liễu, bà Thoa là thành viên hộ gia đình ông Phan Văn Dết  yêu cầu các con của ông Trần Văn Sửu có trách nhiệm giao trả lại cho gia đình phần đất có diện tích 2.852m2 thuộc thửa 296 tờ bản đồ số 6, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Bảnh, ông Sơn, bà Sáng, bà Phụng, ông Hoàng, ông Em, bà Liễu, bà Thoa không đồng ý hoàn lại cho các con ông Sửu giá trị tràm trồng trên đất tranh chấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn Đời, bà Phạm Thị Ánh, ông Trần Công Sơn, ông Trần Hải Dương, bà Nguyễn Thị Thúy Hương, ông Trần Minh Tâm, bà Trần Thị Diễu, ông Trần Văn Đậu, ông Trần Văn Dậu có người đại diện hợp pháp là ông Trần Văn Quý trình bày: Ông Đời, bà Ánh, ông Sơn, ông Dương, bà Hương, ông Tâm, bà Diễu, ông Đậu, ông Dậu không yêu cầu ông Dết hoàn lại giá trị tràm trồng trên đất trong vụ án này, nếu sau này có tranh chấp các ông bà sẽ khởi kiện trong vụ án khác. Ngoài ra, ông Quý đại diện ông Đời, bà Ánh, ông Sơn, ông Dương, bà Hương, ông Tâm, bà Diễu, ông Đậu, ông Dậu không có yêu cầu gì khác.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh là ông Võ Thành Công trình bày: Ngày 20/7/1993 Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 237/QSDĐ với tổng diện tích 7350m2 đất thuộc một phần các thửa 295 (diện tích 3387/34136m2), 296 (diện tích 2852/15792m2), 80 (diện tích 1111/16760m2) tờ bản đồ số 06, Mục đích sử dụng: Mùa (tài liệu 299/TTg) cấp cho ông Phan Văn Dết, theo quyết định số 87/QĐUB của Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh là cấp trên tài liệu 299/TTg.

Ông Phan Văn Dết được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 237/QSDĐ ngày 20 tháng 7 năm 1993, cấp theo tài liệu 299/TTg và cấp trên diện tích 2852/15792m2 không thể hiện rõ vị trí của phần đất 2852m2, trong khi đó-thửa số 296, tờ bản đồ số 06 diện tích rất lớn.

Ngày 19/4/1995, ông Trần Văn Sửu được Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 169/QSDĐ với tổng diện tích 28.057m2 thuộc cac thửa 752, 753, 772, 775, 776, 763, 762 tờ bản đồ số 4 (Tài liệu 02/CT-UB), mục đích sử dụng: Lúa (L, 2L), theo quyết định số 102/QĐ-UB ngày 19/4/1995.

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 169/QSDĐ ngày 19/4/1995 (theo tài liệu 02/CT-ƯB) cho hộ ông Trần Văn Sửu là đúng theo trình tự, thủ tục quy định pháp luật, Ủy ban nhân dân huyện Bình chánh đề nghị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xem xét giải quyết vụ việc đúng theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 107/2013/DS-ST ngày 28/8/2.013, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh quyết định:

Không chấp nhận yêu của ông Phan Văn Dết về việc yêu cầu ông Trần Văn Quý, ông Trần Văn Đời, bà Trần Thị Tơ, bà Trần Thị Diễu, ông Trần Văn Đậu, ông Trần Văn Dậu, ông Trần Văn Cường trả lại phần đất có diện tích 2.852m2 thuộc thửa 296 tờ bản đồ số 6, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh (theo tài liệu 299/TTg).

Tòa cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí đo đạc, định giá, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, nguyên đơn ông Phan Văn Dết kháng cáo.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 1545/2013/DSPT ngày 29/11/2013, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm và quyết định về án phí theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Dết có đơn đề nghị xem xét bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại quyết định kháng nghị số 68/2014 KN-DS ngày 5/9/2014, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 1545/2013/DS-PT ngày 29/11/2013 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 107/2013/DS-ST ngày 28/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh để xét xử sơ thẩm lại..

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hủy Hai bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại.

XÉT THẤY

Diện tích 2852m2 đất tại thửa 296 tọa lạc tại xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh đang tranh chấp các bên đều xác định có nguồn gốc của gia đình mình, nhưng không xuất trình được tài liệu nào để chứng minh; trong khi đó, trước năm 1991 diện tích đất này do Tập đoàn 44, xã Vĩnh Lộc, huyện Bh; Chánh đăng ký kê khai. Sau khi Tập đoàn sản xuất giải thể, ngày 6/8/1991 cụ PhE Văn Khuôi là bố ông Phan Văn Dết lập Tờ tương phân chia đất cho các con. Trpi đó, vợ chồng ông Phan Văn Dết có 09 nhân khẩu nên được cụ Khuôi chia ct 7551,5m2 loại đất lúa, gồm 03 thửa 295, 296, 80 thuộc tờ bản đồ số 06 (Tờ tịpm phân được Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc B xác nhận) từ khi được chia đất gia đình ông Dết  đã quản lý sử dụng và đăng ký kê khai. Năm 1993, ông Dết được Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên. Đen thời điểm tranh chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên vẫn còn giá trị và cũng không có xác nhận nào của chính quyền xác định việc cấp giấy chứng nhận cho hộ ông Phan Văn Dết là không đúng pháp luật.

Đến năm 1995 gia đình cụ Trần Văn Sửu mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất tranh chấp nêu trên, cụ Sửu không chứng minh được diện tích đất trên là của gia đình cụ đưa vào tập đoàn 44 và cũng không chứng minh được tập đoàn đã trả lại đất cho cụ. Ông Dết xác định năm 2001 khi phát hiện gia đình cụ Sửu trồng chàm trên đất ông Dết đã có đơn khiếu nại. Ngày 25/6/2002, Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc B khi tiến hành hòa giải tranh chấp đất giữa ông Dết và cụ Sửu cũng cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đât cho cụ Sửu là sai và đê nghị Uy ban nhân dân huyện Bình Chánh thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho cụ Sửu. Tòa án hai cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào việc cụ Sửu đăng ký đất theo Chỉ thị số 02/CT-UB của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh còn gia đình ông Dết không đăng ký; gia đình cụ Sửu đang sử dụng đất và theo trình bày của đại diện Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ Sửu là đúng quy định để bác yêu cầu khởi kiện của gia đình ông Phan Văn Dết là không phù họp với các tình tiết khách quan của vụ án.

Vì vậy, kháng nghị của Viện tnrởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm nêu trên là có căn cứ chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

- Hủy Bản án dân sụ phúc thẩm số 1545/2013/DS-PT ngày29/l 1/2013 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 107/2013/DSST ngày 28/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Phan Văn Dết với bị đơn là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Trần Văn Sửu (đã chết) gồm ông Trần Văn Đời, ông Trần Văn Quý, bà Trần Thị Muời, bà Trần Thị Tơ, bà Trần Thị Điễu, ông Trần Văn Đậu, ông Trần Văn Dậu, ông Trần Văn Cường và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tên bản án

Bản án số 414/2014/DS-GĐT ngày 15/10/2014 về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English