QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 429/2014/DS-GĐT NGÀY 22/10/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 22/10/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do có kháng nghị số 304/2014/ KN- DS ngày 29/8/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 186/2011/DSPT ngày 14/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ghi, sinh năm 1954;

Bị đơn: Ông NguyễnVăn Nhớ, sinh năm 1956;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1957;

2. Chị Nguyễn Thị Hồng Ngân, sinh năm 1977;

3. Anh Nguyễn Văn Suốt, sinh năm 1982;

4. Chị Nguyễn Thị Thiên Kiều, sinh năm 1983;

5. Anh Nguyễn Niếp Ty, sinh năm 1986;

6. Chị Nguyễn Thị Bích Liên, sinh năm 1989. h‘ỶCác đương sự đều trú tại ấp Hòa Trực, xã Hòa Tú I, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ghi trình bày: Ông là chủ sử dụng diện tích 15.100m2 đất được Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Xuyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000110 ngày 10/5/1993, nguồn gốc đất này là của mẹ ông; năm 1994, do ông Nguyễn Văn Nhớ làm ăn thất bại, mẹ ông đặt điều kiện ông trả hoa lợi cho cụ để cụ cho ông Nhớ. Ngày 21/6/1994 ông đã giao trả cho mẹ ông 4.500m2, mẹ ông có chừa đường thoát nước cặp lộ ra cho ông ngang 8m, dài 42,65m diện tích bằng 341,2m2.

Từ năm 1994 đến năm 1998 ông Nhớ có ý chiếm luôn phần đất này, mục đích buộc ông phải bỏ đất hoang vì không có đường thoát nước, xã đã giải quyết và cắm mốc nghiêm cấm hành vi xâm chiếm của ông Nhớ; từ năm 1999 đến năm 2005 thì do có tuyến lộ dal ông Nhớ muốn chiếm phần này để nâng giá trị đất của ông Nhớ. Nay, ông yêu cầu Tòa án buộc ông Nhớ trả cho ông diện tích 341,2m2 (ngang 8m, dài 42,65m) tại tờ bản đồ số 6 thửa đất số 164 tọa lạc ấp Hòa Trực, xã Hòa Tú 1, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

Bị đơn ông Nguyễn Văn Nhớ trình bày: phần đường mà ông Ghi cho rằng ông chiếm là không đúng, vì khi cắt diện tích 4.500m2 trong diện tích do ông Ghi đứng tên lúc chưa có kênh thì để ông Ghi sử dụng, nay đã có kênh thủy lợi ông Ghi đã có đường thoát nước thì ông lấy diện tích này lại, chứ không có chiếm cũng như không có sử dụng hơn 4.500m2. Nay ông và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (do ông đại diện theo ủy quyền) không đồng ý theo yêu cầu của ông Ghi, vì đây là phần đất nằm trong diện tích 4.500m2 do ông Ghi đã giao trả trước đây.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2010/DS-ST ngày27/5/2010, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên quyết định:

Bác yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất có số đo tứ cận: Phía đông giáp lộ dal có số đo 42m; phía tây giáp ông Nguyễn Văn Nhớ có số đo 42m; phía nam giáp ông Nguyễn Văn Nhớ có số đo 7,2m; phía bắc giáp ông Nguyễn Văn Ghi có số đo 6,2m có tổng diện tích 280m2 của ông Nguyễn Văn Ghi đối với ông Nguyễn Văn Nhớ.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí thẩm định, định giá và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 07/6/2010, ông Nguyễn Văn Ghi kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 186/2011/DSPT ngày 14/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng quyết định:

Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn Ghi, sửa bản án dân sự sơ thẩm số 18/2010/DSST ngày 27/5/2010 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên như sau:

Buộc ông Nguyễn Văn Nhớ và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Hiền, chị Nguyễn Thị Hồng Ngân, anh Nguyễn Văn Suốt, chị Nguyễn Thị Thiên Kiều, anh Nguyễn Niếp Ty, chị Nguyễn Thị Bích Liên có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Ghi diện tích đất theo đo đạc thực tế là 257,7m2 nằm trong thửa 164, tờ bản đồ số 6, đất tọa lạc ấp Hòa Trực, xã Hòa Tú I, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Xuyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn Ghi ngày 10/5/1993.

- Phần đất có số đo tứ cận như sau:

+ Hướng đông giáp lộ Dal có cạnh là 42,2m.

+ Hướng tây giáp đất ông Nguyễn Văn Nhớ có cạnh là 42,3m.

+ Hướng nam giáp đất ông Nguyễn Văn Nhớ có cạnh là 5,4m.

+ Hướng bắc giáp đất ông Nguyễn Văn Ghi có cạnh là 6,8m.

Ngoài ra, Tòa án phúc thẩm còn quyết định về án phí, chi phí định giá và thẩm định.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Văn Nhớ có đơn đề nghị xem xét lại Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại quyết định kháng nghị số 304/2014 KN-DS ngày 29/8/2014 Chánh án Tòa án V;/ nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 186/2011/DSPT ngày 14/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân: tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên để xét xử phúc thẩm lại.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ghi cho rằng: Diện tích đất tranh chấp là đường thoát nước giáp lộ Dal diện tích đo thực tế là 280m2 trong tổng diện tích 15.100mthuộc thửa 164 tọa lạc tại ấp Hòa Trực, xã Hòa Tú I, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng; ông đã được Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Xuyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/5/1993. Nguồn gốc đất trên là của cha mẹ của ông cho ông. Năm 1994 mẹ ông lấy lại 4.500m2 trong diện tích đất trên để cho ông Nhớ (em của ông), khi cho ông Nhớ thì không cho đường thoát nước sát lộ Dal  mà để ông sử dụng. Nay ông yêu cầu Tòa án buộc ông Nhớ trả cho ông diện tích đất của đường thoát nước nêu trên.Bị đơn là ông Nguyễn Văn Nhớ trình bày: Khi mẹ của ông cho ông 4500m2 đất thì đã bao gồm cả đường thoát nước này. Trước đó, đất của ông Ghi chưa có kênh thoát nước nên ông để cho ông Ghi sử dụng đường thoát nước này, nay đã có kênh thủy lợi, ông Ghi đã có đường thoát nước nên ông lấy lại diện tích này. Do đó ông không đồng ý với yêu cầu của ông Ghi.

Tại biên bản trả hoa lợi ngày 21/6/1994, cụ Nhật (mẹ ông của ông Ghi và ông Nhớ) đã thống nhất giao 4500m2 đất trong tổng số 15.100m2 mà ông Ghi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nhớ, theo đó xác định vị trí đất là “từ đìa của 5 Nhớ đến lộ là của 5 Nhớ”, như vậy có căn cứ xác định đất của ông Nhớ là giáp lộ Dal. Ngoài ra, biên bản thỏa thuận trên còn thể hiện “... tạm thời kênh chưa mở ông Ghi được quyền sử dụng khi nào kênh thủy lợi mở đập là tư Ghi trả về Năm Nhớ khúc kênh ra sông Ke Đình”.

Tại biên bản xác định nguồn gốc đất ngày 27/3/2006, cụ Trần Thị Nhật trình bày:

“Do trước đây không có đường nước nên bác Trần Thị Nhật cho chú 4 Ghi tạm mượn đường nước trên để sử dụng. Hiện nay trên phần đất của chú 4 Ghi đã có đường nước nên bà Trần Thị Nhật thống nhất lấy lại phần đường nước cho chú 5 Nhớ sử dụng”.

Hơn nữa, tại tờ tường trình ngày 10/4/2005 cụ Nhật nêu: “...năm 1994 tôi lấy lại cho con tôi là Nguyễn văn Nhớ canh tác với diện tích 4500m2, không tính thổ cư vườn nhà...cụ thể như sau: Chiều ngang hướng tây giáp với 4 ghi, chiều dài hướng bắc giáp ranh 4 ghi và chạy thẳng đến lộ”. Trong thực tế thì khi chưa có kênh thủy lợi, cả ông Ghi và ông Nhớ cùng sử dụng đường thoát nước có tranh chấp, cho đến nay ông Ghi đã có đường thoát nước khác ra kênh thủy lợi. Với thực tế sử dụng đất, lời xác nhận của cụ Nhật, lời khai của ông Nhớ thì có cơ sở xác định ông Nhớ được sử dụng đất đến lộ Dal trong đó có đường thoát nước đang tranh chấp. Lẽ ra, phải xác định diện tích đất tranh chấp là của ông Nhớ từ đó bác yêu cầu khởi kiện của ông Ghi như Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mới đúng, Tòa án cấp phúc thẩm đánh giá không đúng về nội dung biên bản trả hoa lợi ngày 21/6/1994 từ đó cho rằng diện tích đất của ông Nhớ nhiều hơn so với diện tích đất thực có nên đã xác định diện tích đất tranh chấp là của ông Ghi là không đúng. Do đó, cần hủy bản án phúc thẩm trên để giải quyết lại vụ án từ cấp phúc thẩm.

Khi giải quyết lại vụ án nếu không có tài liệu chứng cứ gì khác thì cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Vì vây, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên là có căn cứ chấp nhận.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 186/2011/DS-PT ngàyl4/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất“ giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Ghi với bị đơn là ông Nguyễn Văn Nhớ và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Tên bản án

Bản án số 429/2014/DS-GĐT về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English