Bản án số: 624/2015/DS-PT Ngày: 28/5/2015

V/v: “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất”

 

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HCM

Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

 

Thẩm phán
Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Tô N

Ông Nguyễn Minh H

Ông Trần H

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Võ Thị Thu H

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HCM tham gia phiên tòa: Ông Đỗ Văn  H - Kiểm sát viên.

 

Vào ngày 28 tháng 5 năm 2015 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố HCM xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 292/DSPT ngay 13/6/2014 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất” do bản án dân sự sơ thẩm số 132/2014/DS-ST ngày 07/4/2014 của Tòa án nhân dân quận TP bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1363/2015/QĐPT-DS ngày 12 tháng 5 năm 2015, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

Bà NĐ_Bùi Thị Nhung

Địa chỉ: 390/7 LBB, phường HT, quận TP, Thành phố HCM. Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Sỹ Thoại, sinh năm 1987. Địa chỉ: 483-485 TC, Phường 14, quận TB, Thành phố HCM.

Bị đơn:

BĐ_Công ty CP Bao Bì Hộp Thiếc AB

Địa chỉ: E7-E8 đường số 5 cụm công nghiệp TP, xã LB, huyện BL, tỉnh LA.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân quận TP

Địa chỉ: 70A TNH, phường HT, quận TP, Thành phố HCM.

Đại diện theo ủy quyền:

-           Bà Nguyễn Thị Vương - Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận TP.

-           Bà Nguyễn Thị Thy - Chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường quận TP.

2. Ông Nguyễn Xuân Duy, Sinh năm 1941

Địa chỉ: 06 TN, phường TT, quận TP, Thành phố HCM.

3. Ông Lê Văn Dương, sinh năm 1987.

4. Bà Ngô Phương Quy, sinh năm 1991.

5. Lê Thành Được, sinh năm 2010 do ông LQ_Lê Văn Dương là người đại diện theo pháp luật.

Cùng địa chỉ: 394 LBB, phường HT, quận TP, TP. HCM.

6.         Bà LQ_Nguyễn Thị Tô, sinh năm 1958.

Địa chỉ: 40 đường A4 Khu K300, Phường 12, quận TB, Thành phố HCM.

7.         Bà LQ_Nguyễn Thị Ty, sinh năm 1966.

8.         Ông LQ_Nguyễn Văn Khương, sinh năm 1959.

9.         Bà LQ_Nguyễn Thị Thi, sinh năm 1986.

10.       Bà LQ_Nguyễn Thị Thu Trung, sinh năm 1988.

11.       Bà LQ_Nguyễn Thị Thùy, sinh năm 1992,

12.       Bà LQ_Nguyễn Thị Hân, sinh năm 1994.

Cùng địa chỉ: 394A LBB, phường HT, quận TP, TP. HCM.

13.       Ông LQ_Trần Ngọc Du, sinh năm 1965.

14.       Bà LQ_Nhan Thị Hương, sinh năm 1967.

15.       Trẻ LQ_Trần Thị Ân, sinh năm 1999 do ông LQ_Trần Ngọc Du là người đại diện theo pháp luật.

Cùng địa chỉ: 390/1 LBB, phường HT, quận TP, TP. HCM.

16.       Ông LQ_Nguyễn Đăng Thán. Sinh năm 1975.

Địa chỉ: 19 đường số 11, phường LT, quận TĐ, thành phố HCM.

17.       Ông LQ_Khưu Quang Viễn, sinh năm 1972.

18.       Bà LQ_Nguyễn Thị Thiêu, sinh năm 1979.

19.       Trẻ LQ_Khưu Trí Vị, sinh năm 2005 do ông LQ_Khưu Quang Viễn là người đại diện theo pháp luật.

Cùng địa chỉ: 390/3 LBB, phường HT, quận TP, Thành phố HCM.

20.       Bà LQ_Huỳnh Thị Loan, Sinh năm 1956.

21.       Bà LQ_Huỳnh Thị Liên sinh năm 1972.

22.       Bà LQ_Trần Thị Hoan, Sinh năm 1977.

23.       Ông LQ_Trần Văn Miền, sinh năm 1985.

24.       Ông LQ_Huỳnh Minh Phương, sinh năm 1995.

Cũng địa chỉ: 390/3 LBB, phường HT, quận TP, thành phố HCM.

25.       Bà LQ_Bùi Thị Lan, sinh năm 1954.

26.       Bà LQ_Trần Thị Tân, sinh năm 1976.

27.       Ông LQ_Trần Trung Tú, sinh năm 1985.

Cũng địa chỉ: nhà         không số thuộc khuôn viên nhà 378 LBB, phường HT, quận TP, TP. HCM.

28.       Ông Đặng Thế Phong.

Địa chỉ: 72/21 NHĐ, Phường 14, quận TB, TP. HCM.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên  quan bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Trần Ngọc Du: Luật sư NBM – Văn phòng Luật sư TP (Có mặt).

Ông Nguyễn Sỹ Thoại, ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Trần Ngọc Du, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, bà LQ_Bùi Thị Lan có mặt.

Các ông bà Nguyễn Thị Vương, Nguyễn Thị Thy, LQ_Trần Thị Tân, LQ_Trần Trung Tú, LQ_Đặng Thế Phong có đơn xin xét xử vắng mặt.

Các ông bà LQ_Lê Văn Dương, LQ_Ngô Phương Quy, trẻ LQ_Lê Thành Được sinh năm 2010 có ông LQ_Lê Văn Dương là người đại diện theo pháp luật, LQ_Nguyễn Thị Ty, Nguyễn Văn Khánh, LQ_Nguyễn Thị Thi, LQ_Nguyễn Thị Thu Trung, LQ_Nguyễn Thị Thùy, LQ_Nguyễn Thị Hân, LQ_Nhan Thị Hương, trẻ Trần Anh Mỹ do ông LQ_Trần Ngọc Du là đại diện theo pháp luật, LQ_Khưu Quang Viễn, LQ_Nguyễn Thị Thiêu, trẻ LQ_Khưu Trí Vị do ông LQ_Khưu Quang Viễn đại diện theo pháp luật, LQ_Huỳnh Thị Liên, LQ_Trần Thị Hoan, LQ_Trần Văn Miền, LQ_Huỳnh Minh Phương vắng mặt.

 

NHẬN THẤY:

Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:

Trong đơn khởi kiện ngày 14/12/2004, đơn xin rút yêu cầu ngày 14/7/2006, đơn điều chỉnh yêu cầu ngày 16/8/2010, đơn xin rút yêu cầu ngày 05/10/2011, đơn khởi kiện bổ sung ngày 24/12/2012 và các biên bản làm việc tại Tòa án nhân dân quận TP, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (ông Phạm Nguyễn Điền) trình bày:

Khu đất có diện tích 3.060 m2 thuộc số địa bộ số 32, tờ bản đồ thứ 3, PTH, phường  19, quận TB do ông Bùi Văn Thông đứng tên, bà NĐ_Bùi Thị Nhung (con duy nhất của ông Thông chết năm 1967) sử dụng, loại đất thổ tập trung.

Năm 1976, bà NĐ_Nhung cho ông Dương Tam Nho thuê 250 m2 đất thuộc phần đất trên với thời hạn thuê từ năm 1976 -1985. Trên phần đất này có xây dựng một căn nhà trệt (32 m2) do ông Thái Yến Phận làm chủ. Đến tháng 6/1979, ông Phận, ông Nho không sử dụng đất thuê nữa, ông Phận bán căn nhà trên (phần xây dựng) cho BĐ_Nhà máy hộp thiếc AB (sau đây gọi tắt là BĐ_Nhà máy) thuộc Công ty dầu thực vật C (BĐ_Nhà máy hộp  thiếc AB sau đó đổi tên là BĐ_Xí nghiệp cơ khí dầu thực vật - sau đây gọi tắt là BĐ_Xí nghiệp, và nay là BĐ_Công ty CP Bao Bì Hộp Thiếc AB - sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty).

Ngày 16/9/1979, bà NĐ_Nhung lập Tờ cam kết thoả thuận cho thuê (mướn) đất với BĐ_Nhà máy với nội dung cụ thể như sau:

Phần 1: Bà NĐ_Nhung có miếng đất bề ngang (theo Hương lộ 14) là 10 m, bề dài là 25m, tức 10m x 25m. Năm 1976, bà NĐ_Nhung cho ông Dương Tam Nho thuê với thời hạn 10 năm (từ năm 1976 đến năm 1985) có chứng nhận của địa phương kèm theo, mỗi năm là

5.000 đồng (tiền ngụy cũ) qui ra tiền quốc gia Việt Nam là 10 đồng và ông Dương Tam Nho là người thuê đất đã trả đủ số tiền thuê cho bà NĐ_Nhung hết thời gian thuê. Trên đất thuê  có xây dựng một căn nhà trệt bằng gạch lợp tôn rộng 32m2 do ông Thái Yến Phận làm chủ

 

đồng thời có quyền kế thừa sử dụng đất thuê ở trên. Ngày 22/6/1979, ông Thái Yến Phận không ở nữa mà bán cho BĐ_Nhà máy hộp thiếc AB căn nhà trên để BĐ_Nhà máy làm nhà  ở cho công nhân. BĐ_Nhà máy mua căn nhà này sử dụng và tiếp tục sử dụng miếng đất mà ông Nho ông Phận trước đây đã thuê của bà NĐ_Bùi Thị Nhung và đã trả tiên thuê đất tới giữa năm 1985.

Phần 2: Hiện nay BĐ_Nhà máy hộp thiếc AB đang sử dụng miếng đất như đã nêu  trên nhưng quá chật hẹp, không có đất để làm nhà tắm và bếp nấu ăn, do vậy BĐ_Nhà máy và bà NĐ_Bùi Thị Nhung thỏa thuận:

+ BĐ_Nhà máy hộp thiếc AB có toàn quyển sử dụng diện tích 250m2 theo thời gian ông Nho đã thuê.

+ Bà NĐ_Nhung thỏa thuận cho BĐ_Nhà máy AB thuê mướn thêm bề ngang 10m, chiều sâu 2m (20m2) từ tháng 6/1979 đến hết tháng 6/1985 với giá thuê như đã cho ông Nho thuê trước đây 0đ04 x20m = 0đ80 X 6 năm = 4đ8 hào. Trên mảnh đất mượn thêm này có hoa màu do bà NĐ_Nhung trồng trọt. BĐ_Nhà máy hộp thiếc AB thỏa thuận bồi thường số hoa màu trên. Tổng cộng số tiền bà NĐ_Nhung được hưởng thêm là 44đ80. Số tiền này BĐ_Nhà máy bộp thiếc AB đã thanh toán cho bà NĐ_Nhung bằng tiền mặt.

Phần 3: Cam kết chung: Hai bên cam kết:

+ Bên mướn đất (BĐ_Nhà máy) có toàn quyền sử dụng miếng đất 270m2 đã nêu trên chiều ngang 10m, chiều sâu 27m đến giữa năm 1985.

+ Bên cho mướn đất cam kết nếu có tranh chấp hoặc gây khó khăn cho bên mướn thì phải chịu trách nhiệm hoàn toàn và đền bù mọi hao phí của BĐ_Nhà máy đã bỏ ra.

Bản cam kết này lập thành 4 bản giao cho: Chủ đất giữ một bản, BĐ_Nhà máy hộp thiếc AB 1 bản, Công ty dầu thực vật C 1 bản để báo cáo, chính quyền địa phương 1 bản để báo cáo.

Sau khi thuê đất, BĐ_Nhà máy đã tiến hành xây dựng khu nhà tập thể mang số 378 LBB (trước đây là Hương lộ 14) phường HT, quận Tàn Phú gồm 07 phòng và phân cho 07 công nhân BĐ_Nhà máy ở.

Hết thời hạn thuê, bà NĐ_Nhung muốn thanh lý hợp đồng nhưng BĐ_Nhà máy không thực hiện dẫn đến tranh chấp.

Ngày 22/10/1989 bà NĐ_Nhung đã khiếu nại đến BĐ_Nhà máy (thời điểm này đã  đổi thành BĐ_Xí nghiệp) tại UBND phường 19 quận TB, Công an quận TB.

Ngày 15/12/1989, Biên bản giải quyết tranh chấp tại phường 19, quận TB do các bên có ý kiến:

+ Xác nhận việc bà NĐ_Nhung cho BĐ_Xí nghiệp thuê đất, nay đã hết hạn thuê.

+ Phía gia đình bà NĐ_Nhung nêu ý kiến muốn lấy lại phần đất đã cho thuê.

+ BĐ_Xí nghiệp muốn mua lại phần đất trên hoặc tiếp tục thuê mướn.

Do các bên không hoà giải được với nhau nên bà NĐ_Nhung tiếp tục có đơn khiếu nại. Vụ việc được Thanh tra quận TB thụ lý, giải quyết; sau nhiều lần tiếp xúc hoà giải, ngày 29/7/1992 các bên đã hoà giải thành và Thanh tra quận TB đã lập biên bản ghi nhận sự thoả thuận của bà NĐ_Nhung và ông Đào Văn Thiền - giám đốc BĐ_Xí nghiệp với nội dung:

+ BĐ_Xí nghiệp đồng ý thanh lý hợp đồng thuê đất để trả lại cho bà NĐ_Nhung do đã hết hạn từ năm 1985 đến nay.

+ Bà NĐ_Nhung có trách nhiệm hoàn lại số tiền giá trị vật liệu xây dựng còn lại mà BĐ_Xí nghiệp đã xây dựng trên phần đất của bà NĐ_Nhung.

+ Căn nhà có diện tích 4m x 8m tính từ mặt tiền đường Hương lộ 14 nằm sát con hẻm đường đi vào nhà bà NĐ_Nhung mà BĐ_Xí nghiệp đã mua lại của ông Phận trước đây là của BĐ_Xí nghiệp. Sau khi trừ diện tích căn nhà nói trên, BĐ_Xí nghiệp chịu trách nhiệm giải quyết các hộ đang ở trên phần đất mà BĐ_Xí nghiệp đã thuê của bà NĐ_Nhung phải dọn đi để trả lại đất cho bà NĐ_Nhung.

+ Phần tiền thuê nhà đất từ năm 1985 đến 31/7/1992, nếu chưa thanh toán thì phải thanh toán cho bà NĐ_Nhung.

Ngày 31/7/1992, Thanh tra quận TB đã có Công văn số 44/VB-TT gửi BĐ_Xí nghiệp và bà NĐ_Bùi Thị Nhung về việc trích Biên bản giải quyết thành ngày 29/7/1992. Ngày 25/10/1992 Thành tra quận TB có Văn bản thông báo 65/TB-XKT đề nghị BĐ_Xí nghiệp trả đất cho bà NĐ_Nhung, tuy nhiên BĐ_Xí nghiệp không thực hiện.

Bà NĐ_Nhung liên tục thực hiện việc đòi BĐ_Xí nghiệp và sau này là BĐ_Công ty trả đất nhưng BĐ_Xí nghiệp và sau này là BĐ_Công ty không trả.

Ngày 21/7/2004, UBND Thành phố ban hành Quyết định số 632/QĐ-UB xác lập sở hữu nhà Nhà nước đối với căn nhà 378 LBB, tuy nhiên ngày 20/6/2011, UBND thành phố ban hành Quyết định số 3125/QĐ-UBND thu hồi Quyết định số 632/QĐ-UB xác lập sở hữu nhà Nhà nước đối với căn nhà 378 LBB.

Nay ông đại diện cho bà NĐ_Nhung yêu cầu:

-           Tuyên bố chấm dứt hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất giữa bà NĐ_Nhung và BĐ_Công ty CP Bao Bì Hộp Thiếc AB.

-           BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB và các hộ gia đình hiện nay đang ở trong khuôn viên căn nhà 378 LBB (bao gồm các căn nhà 394, 394A, phần trước nhà 394A, 390/1, 390/3, 390/5 và nhà không số) tháo dỡ và hoàn trả phần đất đã thuê theo Tờ cam kết thỏa thuận cho thuê (mướn) đất ngày 16/9/1979 theo Bản vẽ hiện trạng nhà đất số 314/2011/HĐĐV-TP ngày 30/12/2011 đã được Phòng Quản lý đô thị quận TP kiểm tra ngày 08/02/2012 cho bà NĐ_Nhung. Thời hạn hoàn trả đất 03 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

-           Do trước đây BĐ_Nhà máy và sau này là BĐ_Xí nghiệp dùng công quỹ để xây khu nhà này nên bà NĐ_Nhung sẽ nộp vào công quỹ Nhà nước số tiền xây dựng nhà mà trong biên bản ngày 12/12/1990, Phòng Xây dựng quận TB đã chiết tính là 17.541.620 đồng.

-           Bà NĐ_Nhung được sở hữu phần đền bù giải tỏa phần đất liên quan đến căn nhà trên mà Ban bồi thường quận TP đang giữ tại Ngân hàng K – chi nhánh TP, cụ thể là:

+ Số tiền bồi thường hỗ trợ thiệt hại về đất là 456.960.000 đồng và số lãi phát sinh trương ứng với số tiền trong Quyết định số 283/QĐ-UBND ngày 20/01/2011 của LQ_UBND quận TP kèm theo Bảng định giá trị bồi thường hỗ trợ thiệt hại tài sản số 514 ngày 10/12/2010 hiện đang gửi tại Ngân hàng K - chi nhánh TP.

+ Số tiền bồi thường hỗ trợ thiệt hại về đất 307.088.000 đồng và số lãi phát sinh  tương ứng với số tiền trong Quyết định số 284/QĐ-UBND ngày 20/11/2011 của LQ_UBND quận TP kèm theo Bảng định giá trị bồi thường hỗ trợ thiệt hại tài sản số 516 ngày 10/12/2010 hiện đang gửi tại Ngân hàng K - chi nhánh TP.

-           Bà NĐ_Nhung không đồng ý bồi hoàn giá trị xây dựng mà các hộ dân đang ở trên do việc xây dựng này là không có phép.

Ông xác nhận bà NĐ_Nhung rút lại  yêu  cầu  BĐ_Công ty thanh  toán tiền thuê    đất 1.175.000.000 đồng. Xác nhận khi LQ_UBND quận TP xây nhà tình thương cho bà LQ_Lan trên phần đất thuộc khuôn viên nhà tập thể 378 LBB thì bà NĐ_Nhung đã đồng ý.

Đại diện bị đơn trình bày:

Tại bản tự khai ngày 25/2/2005, cùng các biên bản lấy lời khai, đại diện bị đơn xác nhận nguồn gốc lô đất 378 LBB phường HT quận TP là đi thuê lại của ông Thái Yến Phận. Tuy nhiên đại diện bị đơn cho rằng thời điểm năm 1980, BĐ_Nhà máy đã thỏa thuận mua lại lô đất trên với bà NĐ_Nhung cũng như thỏa thuận mua thêm phần đất ngang 10m sau 2m  và

đã trả đủ tiền mua đất kể cả tiền bồi thường thiệt hại hoa màu trồng trọt. Sau khi xây dựng nhà ở cho công nhân thì BĐ_Nhà máy đã phân cho 07 cá nhân gồm: ông LQ_Duy 36,72 m2, bà LQ_Tô 34m2, bà Quyên 32m2, bà LQ_Loan 16m2, ông LQ_Du 16m2, bà Noãn 18,4m2 và bà Hoa 18m2. Chứng từ trả tiền mua đất do lâu ngày nên thất lạc. Chính vì việc thất lạc  chứng từ này nên khi hòa giải năm 1992 do không biết nên đại diện BĐ_Xí nghiệp đã đồng ý trả lại đất cho bà NĐ_Nhung.

Ngày 07/6/2012, bà Đào Phương Thoa - Giám đốc BĐ_Công ty CP Bao Bì Hộp  Thiếc AB trình bày: Ngày 16/9/1979 BĐ_Nhà máy do ông Vương Thái Pha đại diện có thuê của bà NĐ_Bùi Thị Nhung một lô đất có diện tích 270m2, tại phường 19, quận TB (nay  thuộc nhà số 378 LBB, phường HT, quận TP). Trên lô đất thuê BĐ_Nhà máy có mua một  căn nhà có diện tích 32m2, căn nhà này do ông Thái Yến Phận xây trên đất thuê của bà NĐ_Nhung. Sau khi thuê, BĐ_Nhà máy có xây 07 căn nhà để làm chỗ ở và phân cho công nhân, số tiền xây nhà không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.

Khi hết thời hạn thuê đất, BĐ_Nhà máy đồng ý trả lại đất cho bà NĐ_Nhung, nhưng chưa thỏa thuận được số tiền bồi thường tài sản trên đất. Bên cạnh đó, một số công nhân của BĐ_Nhà máy không đồng ý giao trả lại nhà cho BĐ_Nhà máy để BĐ_Nhà máy trả lại cho bà NĐ_Nhung.

Cuối năm 1998, BĐ_Xí nghiệp được cổ phần hoá thành BĐ_Công ty CP Bao Bì Hộp Thiếc AB. Lô đất đang tranh chấp của bà NĐ_Bùi Thị Nhung không năm trong tài sản của BĐ_Công ty.

Về yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Nhung, hiện nay BĐ_Công ty không còn liên quan. Đối với số tiền bồi thường tài sản trên đất và 50 công nhân còn lại đang ở trên phần đất nêu trên, đề nghị Toà án nhân dân quận TP xét xử theo pháp luật.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Đại diện LQ_UBND quận TP trình bày: Năm 1979, BĐ_Nhà máy cơ khí AB thuộc Liên hiệp dầu thực vật xây cất (bằng vốn ngân sách) khu tập thể số 378 gồm 07 gian nhà.

Theo tài liệu 299/TTg của Thủ tướng Chính phủ (sổ mục kê ruộng đất), toàn bộ khu đất trên thuộc thửa 317 tờ bản đồ số 1 phường 19 quận TB cũ, loại đất: thổ tập trung, diện tích 6.656 m2, hình thức tạm giao.

Nay bà NĐ_Nhung căn cứ theo Biên bản làm việc ngày 17/07/1992, ngày 29/7/1992 và Thông báo số 65/TB-XKT ngày 25/10/1992 của Thanh tra quận TB với nội dung đề nghị BĐ_Xí nghiệp cơ khí thực vật sớm trả đất lại cho bà NĐ_Bùi Thị Nhung. Theo bản tự khai của đại diện BĐ_Công ty có xác nhận của ông Hồ Văn Trân (gửi Toà án ngày 23/3/2005 thể hiện có đứng mua đất của bà NĐ_Nhung để xây dựng nhà tập thể của công nhân và được  ông Lê Văn Tá là Phó chủ tịch phường 19 quận TB (năm 1979) tường trình trong bản tự khai ngày 24/3/2005 gửi Toà án thể hiện ông Trân có lên phường để làm thủ tục thương lượng  hoa màu là sự thật.

Ngày 04/01/2006 ông Đào Văn Thiền (giám đốc BĐ_Công ty) có công văn giải trình gửi Phòng Quản lý đô thị quận TP khu đất của BĐ_Công ty đã thất lạc giấy tờ.

Ngày 30/01/2009, UBND Thành phố HCM ban hành Quyết định số 388/QĐ-UBND về thu hồi đất thực hiện dự án nâng cấp, mở rộng đường LBB trong đó có hai căn nhà thuộc khu nhà 378 bị ảnh hưởng. Do khu nhà 378 đang có tranh chấp và có hai căn nhà bị thu hồi gồm một phần căn 394 và toàn bộ căn 392 LBB nên ngày 20/01/2011, LQ_UBND quận TP có:

+ Quyết định số 283/QĐ-UBND, thu hồi toàn bộ nhà đất có diện tích 16,80 m2  tại  nhà số 392 (thuộc khuôn viên nhà 378) LBB do hộ gia đình bà LQ_Huỳnh Thị Loan đang quản lý sử dụng. Do căn nhà trên đang có tranh chấp, giao Ban bồi thường giải phóng mặt bằng chuyển toàn bộ số tiền 486.192.000 đồng (số tiền này đã trả phần tài sản khác, chi phí di chuyển... là 16.500.000 đồng cho bà LQ_Loan) vào Ngân hàng K - chi nhánh TP theo chế độ tiền gửi tiết kiệm bậc thang và do Ban bồi thường giải phóng mặt bằng tạm đứng tên và sẽ chi trả sau khi có quyết định hoặc bản án của Toà án có hiệu lực thi hành.

+ Quyết định số 284/QĐ-UBND thu hồi một phần nhà đất có diện tích 11.29 m2 tại nhà số 394 (thuộc khuôn viên nhà 378) LBB do hộ gia đình ông LQ_Nguyễn Xuân Duy đang quản lý sử dụng. Do căn nhà đang có tranh chấp, giao Ban bồi thường giải phóng mặt bằng chuyển toàn bộ số tiền 338.075.900 đồng (số tiền này đã trừ 2.500.000 đồng khen thưởng) vào ngân hàng K – chi nhánh TP theo chế độ tiền gửi tiết kiệm bậc thang và do Ban bồi thường giải phóng mặt bằng tạm đứng tên và sẽ chi trả sau khi có quyết định hoặc bản án của tòa án có hiệu lực thi hành.

Đại diện LQ_UBND quận TP xin vắng mặt tại buổi hòa giải và xét xử (nếu có) của tòa án.

Ông LQ_Nguyễn Xuân Duy trình bày: Ông công tác tại BĐ_Nhà máy từ tháng 1/2979, do BĐ_Nhà máy không có nhà cho cán bộ công nhân từ miền Bắc điều vào để xây dựng BĐ_Nhà máy cơ khí dầu thực vật, nên BĐ_Nhà máy đã xin kinh phí Nhà nước mua đất và xây dựng nên khu tập thể 378 LBB, phường HT, quận TP ngày nay cho tập thể công  nhân. Ông được Công ty dầu thực vật C quyết định phân cho một căn hộ với diện tích

26,72m2  và sân. Tháng 8/1982 ông đưa vợ con vào ở và ông lấn phần sân thành căn nhà   với diện tích 73.09m2 đất và gia đình ông ở đến tháng 9/2004. Từ tháng 10/2004 căn nhà ông đang ở được Nhà nước xác lập quyền sở hữu Nhà nước và ông đã đóng tiền thuê nhà và đóng thuế đất đầy đủ. Theo ông được biết kinh phí xây dựng nhà tập thể là kinh phí Nhà nước, còn đất cất nhà là mua bán rõ ràng. Khi xây nhà có xin phép phường đầy đủ. Việc bà NĐ_Nhung đi kiện là hoàn toàn không đúng sự thật. Căn nhà của ông hiện nay có số 394 LBB (số cũ là 378). Hiện ông đang cho gia đình ông LQ_Lê Văn Dương, bà LQ_Ngô Phương Quy thuê nhà. Việc thuê nhà bằng hợp đồng tay không ra công chứng. Năm 2011 do việc mở rộng đường LBB thì căn nhà của ông bị giải tỏa một phần (11,29m2) theo Quyết định số  284/QĐ-UBND ngày 20/01/2011 của LQ_UBND quận TP bàn giao bồi thường giải phóng mặt bằng chuyển toàn bộ số tiền đền bù vào Ngân hàng K – chi nhánh TP theo chế độ tiền gửi tiết  kiệm bậc thang và do Ban bồi thường giải phóng mặt bằng tạm đứng tên và sẽ chi trả sau khi có quyết định hoặc bản án của tòa án có hiệu lực thi hành.

Về yêu cầu của bà NĐ_Nhung, ông có các ý kiến như sau:

Ông xác nhận sau khi được cấp nhà, thì ông và gia đình có lấn thêm phần sân thành 73,09 m2, đã giải toả 11,29 m2  còn 61,80 m2.

Tài sản mà bà NĐ_Nhung đang đi đòi là tài sản của Nhà nước, người được quản lý là Chủ tịch LQ_UBND quận TP, là thủ tướng Chính phủ. Chúng tôi không phải là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Việc nguyên đơn cho rằng chúng tôi là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và thẩm phán thụ lý vụ án trước đây triệu tập chúng tôi là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là không đúng. Đây là vụ án tranh chấp tài sản Nhà nước nên không được hòa giải, đề nghị hội đồng xét xử xem xét lại việc này. Việc thụ lý là không  đúng thẩm quyền.

Khu tập thể 378 LBB là tài sản của Nhà nước, tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước thay mặt quản lý. Hiến pháp năm 1980 đã qui định điều này.

Giám đốc BĐ_Xí nghiệp chỉ là người được Nhà nước giao quản lý và sử dụng. Giám đốc không có quyền định đoạt nên việc năm 1992 giám đốc đồng ý trả lại nhà đất cho bà NĐ_Nhung là không có giá trị, vi phạm pháp luật vì tài sản của Nhà nước không thể trả cho tư nhân.

Chúng tôi đến đây không có nghĩa vụ hòa giải mà đến đây với tư cách công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy chế pháp lý của công dân và theo Điều 38 Luật tổ chức Tòa án nhân dân.

Bà NĐ_Nhung không có căn cứ để cho thuê đất vì không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc đòi đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có căn cứ  thụ lý. Việc Toà án thụ lý năm 2005 là không đúng pháp luật.

Hợp đồng thuê đất năm 1979 là giả tạo. Hợp đồng đó không công chứng nên không có giá trị.

Quyết định 632/QĐ-UB ngày 29/7/2004, UBND thành phố ban hành Xác lập quyền sở hữu Nhà nước đối với nhà số 378 LBB là đúng pháp luật. Quyết định số 3125/QĐ-UBND ngày 20/6/2011 của UBND thành phố HCM là vi hiến phải được hủy bỏ, cơ quan quản lý nhà ở ở địa phương không giao về cho Nhà nước quản lý nhà là vi phạm pháp luật.

Về số tiền bồi thường theo Quyết định số 284/QĐ-UBND của LQ_UBND quận TP là 338.075.900 đồng thì do đây là tài sản của Nhà nước nên nếu Nhà nước thu hồi thì số tiền đó của Nhà nước, do UBND quận quản lý, nếu Hội đồng xét xử trả cho chúng tôi thì trả. Ai làm sai phải bồi thường.

Bà LQ_Nguyễn Thị Tô trình bày: Bà là công nhân tại BĐ_Nhà máy và sau này là BĐ_Xí nghiệp từ tháng 10/1978. Năm 1979 bà được biết được BĐ_Xí nghiệp đã mua căn nhà cấp 4 và 01 lô đất của một ông già (bà không biết tên vì việc mua bán là của giám đốc). Sau khi mua thì BĐ_Xí nghiệp đã xây dựng khu nhà tập thể 378 LBB cho công nhân để ở và bà cũng được cấp một căn nhà 34 m2. Căn nhà của bà hiện có số 394A LBB. Bà xác nhận sau

khi được cấp nhà, thì bà và gia đình có lấn thêm phần sân thành căn nhà như hiện nay với tổng diện tích là 56,21 m2 (diện tích nhà 394A là 39,2m2 + phần sân trước nhà là 17,1 m2), bà có kê khai nhà ờ và sửa chữa lại, khi sửa chữa không có giấy phép nhưng có báo với BĐ_Xí nghiệp. Hàng năm bà đều đóng thuế của phường. Hiện nay bà đang để vợ chồng người em là ông LQ_Nguyễn Văn Khương, bà LQ_Nguyễn Thị Ty và gia đình ở nhờ. Về  yêu cầu của nguyên đơn, bà không đồng ý. Bà đồng ý hoàn toàn với ý kiến của ông LQ_Duy.

Bà LQ_Huỳnh Thị Liên trình bày: bà là em ruột bà LQ_Loan, bà LQ_Loan là công nhân xí nghiệp. Năm 1990 bà có sang nhượng lại một căn phòng của bà Hoàng Thị Quốc với diện tích 4x10m, bà đã đóng thuế nhà đất và nâng cấp nhà để ở. Về nguồn gốc nhà, bà nghe nói là mua chứ không phải thuê của bà NĐ_Nhung.

Ông LQ_Trần Ngọc Du trình bày: cha ông là ông Trần Gia Thêm làm bảo vệ tại xí nghiệp. Đến năm 1980 BĐ_Xí nghiệp cấp cho cha ông một căn hộ 16m2 tại khu nhà 378 LBB. Năm 1983 cha ông chết, ông được BĐ_Xí nghiệp tuyển dụng vào làm tại BĐ_Xí nghiệp và BĐ_Xí nghiệp cũng chuyển quyền sử dụng căn nhà trên cho ông và ông ở căn nhà trên từ năm 1985 đến nay. Trong quá trình ở ông có kê khai nhà ở và sửa chữa lại. Hằng năm ông đều đóng thuế của phường Căn nhà của ông hiện có số 390/1 LBB phường HT.

Về yêu cầu của nguyên đơn, ông không đồng ý. Ông đồng ý với ý kiến của ông LQ_Duy. Hiện nay căn nhà này ông và vợ bà LQ_Nhan Thị Hương, và con là LQ_Trần Thị Ân đang ở.

Ông LQ_Nguyễn Đăng Thán trình bày: Nguồn gốc căn nhà hiện ông đang sử dụng là của bà Thái Thị Noãn được cấp, bà Noãn bán cho nhiều người, sau đó cuối cùng bán cho  ông. Việc mua bán hoàn toàn bằng giấy tờ tay. Hiện tại căn nhà này có số 390/3 LBB  phường HT và ông đang cho gia đình ông LQ_Khưu Quang Viễn và bà LQ_Nguyễn Thị Thiêu thuế. Việc thuê nhà bằng hợp đồng tay không ra công chứng.

Về yêu cầu của nguyên đơn: ông đồng ý với ý kiến của ông LQ_Duy. Ông chỉ là người về ở sau này, ông cũng không biết những người bán cho ông hiện nay ở đâu. Việc  cung cấp giấy tờ mua nhà của ông và những người khác là không cần thiết vì việc sở hữu nhà tập thể trên bất khả xâm phạm.

Bà Bùi Hảo Hoa trình bày: Bà là công nhân của BĐ_Nhà máy, bà cũng được  BĐ_Nhà máy phân cho căn phòng, sau khi được Nhà nước cấp căn hộ, bà có ở nhưng sau đó đã trả lại cho bà NĐ_Nhung (mẹ bà) và bà NĐ_Nhung đã cho LQ_UBND quận TP xây nhà tình thương trên mảnh đất này cho bà LQ_Lan, hiện do bà LQ_Lan sử dụng, sau này bà không còn liên quan gì đến việc này, vì vậy bà đề nghị Tòa án không triệu tập bà là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Bà LQ_Bùi Thị Lan trình bày: Bà là chị ruột bà Hoa, sau khi bà Hoa trả lại phần nhà được BĐ_Nhà máy phân trước đây cho bà NĐ_Nhung (mẹ bà) thì bà NĐ_Nhung cho bà và các con ở. Năm 2010 được sự đồng ý của bà NĐ_Nhung, ngày 25/11/2010 LQ_UBND quận TP đã có Quyết định số 3795/QĐ- UBND xây cho bà một căn nhà tình thương trên phần đất này, khi đó ghi số 390/7A nhưng thực tế thì là nhà không số. Nay về yêu cầu của nguyên đơn thì bà và các con đồng ý hoàn trả lại nhà và đất cho bà NĐ_Nhung.

Ông LQ_Đặng Thế Phong trình bày: Vào tháng 2/2000, bà NĐ_Bùi Thị Nhung có bán cho ông một phần đất có diện tích 80 m2 (ngang 4m, dài 20m) sau khi đã trừ lộ giới toạ lạc tại số 378 Hương lộ 14 phường 19 quận TB với giá là 500.000.000 đồng nhưng bà NĐ_Nhung chưa giao đất cho ông. Hiện nay theo ông được biết thì bà NĐ_Nhung hiện đang khởi kiện BĐ_Công ty yêu cầu trả lại đất. Do đó ông đề nghị Toà án buộc bà NĐ_Nhung giao cho ông 80 m2  đất tại thửa đất 394 LBB (số cũ là 378) phường HT quận TP TP HCM.

Ngày 14/6/2012, đại diện của ông LQ_Phong có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện.

Tòa án đã tổ chức buổi hòa giải nhưng không thành nên Toà án đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật.

Tại bản án sơ thẩm số 132/2014/DS-ST ngày 07/4/2014, Tòa án nhân dân quận TP đã tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Tuyên bố thỏa thuận cho thuê (mướn) đất ngày 16/9/1979 giữa bà NĐ_Bùi Thị  Nhung và BĐ_Nhà máy hộp thiếc AB (nay là BĐ_Công ty CP Bao Bì Hộp Thiếc AB) vô hiệu.

Buộc BĐ_Công ty CP Bao Bì Hộp Thiếc AB, ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Trần Ngọc Du, bà LQ_Huỳnh Thị Liên, ông LQ_Nguyễn  Đăng Thán và toàn bộ những người hiện đang sống trong các căn nhà 394, 394A, phần trước nhà 394A, 390/1, 390/3, 390/5 LBB phường HT quận TP TP HCM gồm: ông LQ_Lê Văn Dương, bà LQ_Ngô Phương Quy, em LQ_Lê Thành Được - sinh năm 2010 (do ông LQ_Lê Văn Dương là người đại diện theo pháp luật), bà LQ_Nguyễn Thị Ty, ông LQ_Nguyễn Văn Khương, chị Nguyễn Thị Thu Hương, chị LQ_Nguyễn Thị Thu Trung, chị LQ_Nguyễn Thị Thùy, em LQ_Nguyễn Thị Hân, Bà LQ_Nhan Thị Hương, em LQ_Trần Thị Ân - sinh năm 1999 (do ông LQ_Trần Ngọc Du là người đại diện theo pháp luật), ông LQ_Khưu Quang Viễn, bà LQ_Nguyễn Thị Thiêu, em LQ_Khưu Trí Vị - sinh năm 2005 (do ông LQ_Khưu Quang Viễn là người đại diện theo pháp luật), bà LQ_Huỳnh Thị Liên, chị LQ_Trần Thị Hoan, em LQ_Trần Văn Miền, em LQ_Huỳnh Minh Phương tháo dỡ phần xây dựng và giao phần đất trống của các căn nhà 394, 394A, phân trước nhà 394A, 390/1, 390/3, 390/5 LBB phường HT quận TP TP HCM (thuộc khuôn viên nhà số 378 LBB phường HT quận TP TP HCM - số cũ) (theo Bản vẽ hiện trạng nhà đất số 3124/2011/HĐĐV-TP ngày 30/12/2011 đa được Phòng Quản lý đô thị quận TP kiểm tra ngày UH/2/2012; cho Bà NĐ_Bùi Thị Nhung.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà LQ_Bùi Thị Lan và các con là Chị LQ_Trần Thị Tân, anh LQ_Trần Trung Tú giao căn nhà và đất không số thuộc khuôn viên nhà 378 LBB  phường HT quận TP (Bản vẽ thể hiện trạng nhà đất số 3124/2011/HDĐV-TP ngày 30/12/2011 đã được Phòng Quản lý đô thị quận TP kiểm tra ngày 08/02/2012) cho bà NĐ_Bùi Thị Nhung.

- Bà NĐ_Bùi Thị Nhung có trách nhiệm hoàn trả phần giá trị không số thuộc khuôn viên nhà 378 LBB cho bà LQ_Bùi Thị Lan là 62.755.420 đồng.

Thời hạn giao nhà và đất, hoàn trả phần giá trị xây nhà: 03 tháng khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Xác định số tiền bồi thưởng hỗ trợ thiệt hại về đất 456.960.000 đồng và số lãi phát sinh tương ứng với số tiền trên trong Quyết định số 283/QĐ-UBND ngày 20/01/2011 của LQ_UBND quận TP (kèm theo Bảng tính giá trị bồi thường hỗ trợ thiệt hại tài sản số 514 ngày 10/12/2010) hiện đang gửi tại Ngân hàng K - chi nhánh TP theo chế độ tiền gửi tiết kiệm bậc thang và do Ban bồi thường giải phóng mặt bằng tạm đứng tên, thuộc quyền sở hữu của bà NĐ_Bùi Thị Nhung.

Xác định số tiền bồi thường hỗ trợ thiệt hại về đất 307.088.000 đồng và lãi phát sinh tương ứng với số tiền trên trong Quyết định số 284/QĐ-UBND ngày 20/01/2011 của LQ_UBND quận TP (kèm theo Bảng tính giá trị bồi thường, hỗ trợ thiệt hại tài sản số 516 ngày 10/12/2010) hiện đang gửi tại Ngân hàng K - chi nhánh TP theo chế độ tiền gửi tiết kiệm bậc thang và do Ban bồi thường giải phóng mặt bằng tạm đứng tên, thuộc quyền sở hữu của bà NĐ_Bùi Thị Nhung.

Đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Bùi Thị Nhung về việc đòi BĐ_Công ty CP Bao Bì Hộp Thiếc AB thanh toán tiền thuê đất 1.175.000.000 đồng do bà NĐ_Nhung rút yêu cầu. Xác  định  số  tiền  bồi  thường  giá  trị  xây dựng  nhà  và  các  vật  kiến  trúc  khác là

29.232.000 đồng và số lãi phát sinh tương ứng với số tiền trên trong Quyết định số 283/QĐ- UBND ngày 20/01/2011 của LQ_UBND quận TP (kèm theo Bảng tính giá trị bồi thường, hỗ trợ thiệt hại tài sản số 514 ngày 10/12/2010) hiện đang gửi tại Ngân hàng K – chi nhánh TP theo chế độ tiền gửi tiết kiệm bậc thang và do Ban bồi thường giải phóng mặt bằng tạm đứng tên, thuộc quyền sở hữu của bà LQ_Huỳnh Thị Loan.

Xác định số tiền bồi thường nhà và các vật kiến trúc khác hỗ trợ tài sản khác và hỗ  trợ khác 30.987.900 và số lãi phát sinh tương ứng với số tiền trên trong Quyết định số 284/QĐ-UBND ngày 20/01/2011 của LQ_UBND quận TP (kèm theo Bảng tính giá trị bồi thường, hỗ trợ thiệt hại tài sản số 516 ngày 10/12/2010) hiện đang gửi tại Ngân hàng K - chi nhánh TP theo chế độ tiền gửi tiết kiệm bậc thang và do Ban bồi thường giải phóng mặt bằng tạm đứng tên, thuộc quyền sở hữu của ông LQ_Nguyễn Xuân Duy.

Ghi nhận việc bà NĐ_Bùi Thị Nhung chịu chi phí đo vẽ định giá nhà bà NĐ_Nhung đã tạm ứng.

Ghi nhận việc bà NĐ_Nhung tự nguyện nộp vào công quỹ Nhà nước số tiền 17.541.620 đồng (phần giá trị xây dựng còn lại của khu tập thể 378 Hương Lộ 14 phường 19 quận TB - cũ, đã xác định trong biên bản ngày 12/12/1990 của Phòng Xây dựng quận TB),

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện độc lập của ông LQ_Đặng Thế Phong do đại diện của ông LQ_Phong rút yêu cầu khởi kiện.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 21 tháng 4 năm 2014, bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, ông LQ_Trần Ngọc Du có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện nguyên đơn trình bày: vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, ông LQ_Trần Ngọc Du giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án  nhân dân quận TP.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Xuân Duy trình bày: vẫn  giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận TP và đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận TP xét xử không đúng thẩm quyền, đây là tranh chấp quyền sử dụng đất giữa cá nhân với cơ quan tổ chức không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên thuộc thẩm quyền của Tòa án.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Tô, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, ông LQ_Trần Ngọc Du trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà LQ_Nguyễn Thị Tô, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, ông LQ_Trần Ngọc Du hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận TP và đình chỉ giải quyết vụ án với các lý do:

-           Tòa án nhân dân quận TP xác định BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB là bị đơn là không có cơ sở: Năm 1998 BĐ_Xí nghiệp cơ khi dầu thực vật AB chuyển đổi thành BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB, trong quá trình chuyển đổi thì BĐ_Xí nghiệp không đưa khu nhà 378 LBB vào danh sách tài sản của BĐ_Xí nghiệp để cổ phần hóa, do vậy nhà 378 LBB không phải là tài sản của BĐ_Công ty cổ phần AB do đó BĐ_Công ty cổ phần hộp thiếc AB không có tư cách và trách nhiệm kế thừa quyền và nghĩa vụ đối với khu nhà 378 LBB,

-           Theo Công văn trả lời của Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh LA thì BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB đã giải thể từ ngày 2/6/2012, Tòa án nhân dân quận TP xét sơ thẩm vào ngày 7/4/2014 xác định BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB là bị đơn là sai, cần phải xác minh ai là người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB để xác định tư cách bị đơn trong vụ án.

-         Tòa án nhân dân quận TP xét xử vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà NĐ_Nhung khởi kiện BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB nhưng bản án sơ thẩm lại buộc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các hộ dân đang sống tại khu nhà 378 LBB thực hiện nghĩa vụ đối với nguyên đơn là vượt quá yêu cầu khởi kiện.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông LQ_Trần Ngọc Du, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, bà LQ_Nguyễn Thị Tô: thống nhất với ý kiến trình bày của luật sư.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HCM phát bìểu:

Việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng: Việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng tuân thủ đúng quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý cũng như tại phiên toà hôm nay, người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng tuân thủ đúng quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự,

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bà LQ_Huỳnh Thị Loan, bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, ông LQ_Trần Ngọc Du và ông LQ_Nguyễn Xuân Duy hợp lệ nên được chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo: Theo Công văn số 107/CV-ĐKKD ngày 18/8/2014 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh LA thì BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB đã đăng ký và giải thể ngày 02/7/2012, hiện chưa có cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, nhưng trong quá trình tham gia tố tụng bà Thoa đại diện BĐ_Công ty cũng không thông báo cho Tòa sơ thẩm biết việc giải thể của BĐ_Công ty để Tòa án giải quyết theo đúng

 

quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 3 Điều 275 Bộ luật Tố tụng dân sự chấp nhận kháng cáo của bà LQ_Huỳnh Thị Loan, bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, ông LQ_Trần Ngọc Du và ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, hủy bản ản sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận TP để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

XÉT THẤY:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Các ông bà Nguyễn Thị Vương, Nguyễn Thị Thy, bà LQ_Trần Thị Tân, ông LQ_Trần Trung Tú, ông LQ_Đặng Thế Phong có đơn xin xét xử vắng mặt có đơn xin  xét xử vắng mặt. Do vậy Tòa án xét xử vắng mặt các ông bà nên theo quy định tại Khoản 1 Điểu 202 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Các ông bà LQ_Lê Văn Dương, bà LQ_Ngô Phương Quy, trẻ LQ_Lê Thành Được - sinh năm 2010 có ông LQ_Lê Văn Dương là người đại diện theo pháp luật, bà LQ_Nguyễn Thị Ty, ông LQ_Nguyễn Văn Khương, bà LQ_Nguyễn Thị Thi, bà LQ_Nguyễn Thị Thu Trung, bà LQ_Nguyễn Thị Thùy, bà LQ_Nguyễn Thị Hân, bà LQ_Nhan Thị Hương, trẻ LQ_Trần Thị Ân do ông LQ_Trần Ngọc Du là đại diện theo pháp luật, ông LQ_Khưu Quang Viễn, bà LQ_Nguyễn Thị Thiêu, trẻ LQ_Khưu Trí Vị do ông LQ_Khưu Quang Viễn là đại diện theo pháp luật, bà LQ_Huỳnh Thị Liên, bà LQ_Trần Thị Hoan, ông LQ_Trần Văn Miền, ông LQ_Huỳnh Minh Phương đã được Tòa án triệu tập lần thứ hai, mặt khác các ông bà trên không kháng cáo bản án sơ thẩm nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt.

 

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, ông LQ_Trần Ngọc Du trong thời hạn luật định nên được chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử có nhận định như sau:

Ngày 07/4/2014, Tòa án nhân dân quận TP tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án nêu trên. Theo Công văn số 107/CV-ĐKKĐ ngày 18/8/2014 của Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh LA và Thông báo số 365/TB-ĐKKD ngày 02/7/2012 thì BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB đã giải thể từ ngày 02/7/2012. Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng dân sự thì: “trong trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động bị giải thể là Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh thì cá nhân; tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng”. Tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm là ngày 07/4/2014 thì BĐ_Công ty cổ phần bao bì hộp thiếc AB đã giải thể, do vậy, cần phải xác minh tổ chức là thành viên của BĐ_Công ty cổ phần bao bì Hộp thiếc AB hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Để bảo  đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, cần hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân quận TP giải quyết lại vụ án.

BĐ_Công ty cổ phần bao bì Hộp thiếc AB đã giải thể từ ngày 02/7/2012 tuy nhiên do đại diện theo pháp luật của BĐ_Công ty không thông báo cho Tòa án nhân dân quận TP về việc giải thể doanh nghiệp, vì vậy cấp sơ thẩm không có lỗi.

Về yêu cầu đình chỉ việc giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân TP thụ lý giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất là đúng quy định của pháp luật, yêu cầu đình  chỉ giải quyết vụ án là không có cơ sở. Quy định của pháp luật, yêu cầu đình chỉ giải quyết  vụ án là không có cơ sở.

Như vậy cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán và ông LQ_Trần Ngọc Du.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ Khoản 3 Điều 275 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Pháp lệnh án phí và lệ phí Tòa án,

 

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán và ông LQ_Trần Ngọc Du, hủy Bản dân sự sơ thẩm số 132/2014/DS-ST ngày 07/4/2014 của Tòa án nhân dân quận TP. Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận TP xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

 

Về án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn lại cho bà LQ_Nguyễn Thị Tô, ông LQ_Nguyễn Xuân Duy, bà LQ_Huỳnh Thị Loan, ông LQ_Nguyễn Đăng Thán, ông LQ_Trần Ngọc Du mỗi người 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo các Biên lai thu tiền số 00905, 00904, 00906, 00910, 00907 ngày 21/4/2014 của Chi cục thi hành án dân sự quận TP.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ khi tuyên án.

 

Tên bản án

Bản án số: 624/2015/DS-PT về tranh chấp Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English