QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 382/2014/DS-GĐT NGÀY 19/09/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 19/9/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử tái thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do có kháng nghị số 206/2014/KN- DS ngày 24/6/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 13/2006/DSPT ngày 2/3/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Bà Lâm Thị Chình, sinh năm 1929;

2. Chị Nguyễn Thị Quyên, sinh năm 1955;

Cùng trú tại: Tổ 4, Phường Nghĩa Chánh, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

(Bà Chình ủy quyền cho chị Quyên làm đại diện theo Văn bản ủy quyền ngày 15/7/2013).

Bị đơn: Bà Lâm Thị Bông, sinh năm 1947 trú tại: Tổ 4, Phường Nghĩa Chánh, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Tắc, sinh năm 1952;

2. Ông Võ Trĩ, sinh năm 1945;Cùng trú tại: Tổ 4, Phường Nghĩa Chánh, thành phổ Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tổ tụng, nguyên đơn là bà Lâm Thị Chình và chị Nguyễn Thị Quyên (bà Chình ủy quyền cho chị Quyên đại diện) trình bày:

Năm 1976 cha mẹ chị Quyên là ông Nguyễn Thành Lực, bà Lâm Thị Chình được Ủy ban nhân dân xã Nghĩa Lộ (cũ) nay là Ủy ban nhân dân phường Nghĩa Chánh đồng ý cho phép chuyển đổi một đôi bò cày (trị giá 1.400đ) để lấy 8 sào 9 thước đất số hiệu 989 của ông La Quang Bông và ông Nguyễn Minh Luân.

Năm 1978 cha mẹ chị Quyên cho ông Lâm Huê mượn 1 sào đất để canh tác, cho cụ Nguyễn Thị Thêm (bà ngoại chị Quyên) mượn 1 sào đất để sản xuất. Việc cho mượn đất chỉ nói miệng không viết giấy tờ. Cũng trong năm 1978 cụ Thêm cho vợ chồng bà Lâm Thị Bông, ông Võ Trĩ làm nhà ở trên đất đã mượn của cha mẹ chị Quyên và có xin cha mẹ chị Quyên cho vợ chồng ông Trĩ, bà Bông 100m2 trong 1 sào đất mượn để làm nhà ở, phần đất còn lại cho phép vợ chồng bà Bông, ông Trĩ được tiếp tục canh tác.

Ngày 11/7/1991 cha mẹ chị Quyên lập di chúc trích 1 phần trong diện tích 8 sào 9 thước cho bà Bông 100m2, bà Lâm Thị Cúc 100m2, ông Dưỡng, bà Lương 1.000m2, số đất còn lại bà Chình đăng ký theo chỉ thị 299/TTgvào ngày 26/4/2983 là 2950m2.

Ngày 05/12/1983, cụ Thêm lấy đất mượn của cha mẹ chị Quyên nhượng cho bà Bông mà không có sự đồng ý của cha mẹ chị Quyên.

Năm 2000 Ủy ban nhân dân tỉnh có kế hoạch thu hồi đất để mở rộng đường Nguyễn Du. Hộ bà Bông, ông Trĩ được áp giá đền bù 246m2 đất, gia đình chị Quyên đồng ý đế bà Bông nhận hết tiền đền bù nhưng phải trả phần đất còn lại, nhưng sau khi nhận tiền đền bù thì vợ chồng bà Bông không chịu trả lại đất.

Nay, mẹ con chị Quyên yêu cầu bà Bông, ông Trĩ trả lại số đất hiện vợ chồng bà Bông đang quản lý sử dụng là 550,5m2. số đất đền bù dôi ra 146m2 mẹ con chị Quyên không yêu cầu đòi lại.

Bị đơn bà Lâm Thị Bông trình bày:

Nguồn gốc đất đang ở là do mẹ bà là cụ Nguyễn Thị Thêm, ông Lực và ông Quảng mua chung vào năm 1976 của ông Bông và ông Luân, nhưng để ông Lực đứng tên. Năm 1978, mẹ bà và ông Năm Huê bán cho bà 1 sào đất nhưng không viết giấy, tháng 12/1983 bà trả đủ tiền mới viết giấy. Chữ viết trong giất chuyển nhượng là của ông Tắc- chồng chị Quyên. Mặc dù mẹ bà chuyển nhượng cho bà 500m2 đất, sau khi mở đường đền bù 246m2 còn lại 500,5m2 là do khi mua mẹ bà chỉ cho bà giới cận chứ không đo đạc cụ thể.

Nay bà xác định diện tích đất bà đang ở là của bà mua của mẹ bà. Mẹ con bà Chình, chị Quyên yêu cầu bà trả lại đất bà không đồng ý. ttoỊý

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Tắc đồng ý với trình bày của chị Quyên.

Ông Võ Trĩ đồng ý với trình bày và yêu cầu của bà Bông

Tại Bản án số 25/2005/DSST ngày 28/10/2005, Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi đã quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Quyên (chị Quyên cũng được bà Lâm Thị Chình ủy quyền) và ông Nguyễn Tắc kiện đòi vợ chồng bậ Lâm Thị Bông, ông Trĩ phải hoàn trả lại cho 3 người được sử dụng 550,5m2đất nằm trong thửa đất có số hiệu cũ 989, số hiệu mới là đất còn lại của các thửa 445, 454 và một phần thửa số 446 theo bản đồ đo vẽ năm 1993 (sau khi áp giá đền bù mở đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi còn lại). Vị trí Tây đường Nguyễn Du thuộc tổ 5, phường Nghĩa Chánh, thành phố Quảng Ngãi.

- Chấp nhận sự tự nguyện của chị Quyên, ông Tắc để cho vợ chồng ông Trĩ, bà Bông được sử dụng 75m2đất.

- Tạm giao tiếp cho vợ chồng bà Bông, ông Trĩ được sử dụng 75m2 đất nữa. Tổng cộng tạm giao cho vợ chồng bà Bông, ông Trĩ được quyền sử dụng 150m2 đất phía Bắc vườn (có bản vẽ kích thước sơ đồ kèm theo).

- Buộc vợ chồng bà Bông, ông Trĩ đốn chặt 4 cây thầu dầu, 3 cây mít, 2 cây bạch đàn và thu dọn các loại tài sản khác để tạm giao cho chị Quyên, ông Tắc được quyền sử dụng 400,5m2 đất phía Nam vườn (sau khi tạm giao cho vợ chồng bà Bông 150m2 đất phía Bắc vườn) 550,5m2-150m2; = 400,5m2.

- Vợ chồng bà Bông, ông Trĩ có trách nhiệm hoàn trả cho bà Chình, chị Quyên, ông Tắc số tiền trị giá 75m2đất X 2.900.000đ = 217.500.000d và 160.000đ tiền định giá tài sản.

Các bên đương sự có trách nhiệm đến Ủy ban nhân dân hành chính cấp có thẩm quyền để xin điều chỉnh đăng ký cho phù hợp quyền sử dụng đất.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về lệ phí giám định, án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm vợ chồng bà Lâm Thị Bông, ông Võ Trĩ có đơn kháng cáo.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 13/2006/DSPT ngày 02/3/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi quyết định:

“Chấp nhận yêu cầu của bà Lâm Thị Chình, Nguyễn Thị Quyên, Nguyễn Tắc kiện đòi vợ chồng bà Lâm Thị Bông, ông Võ Trĩ phải hoàn lại cho bà Chình, vợ chồng chị Quyên, ông Tắc được sử dụng 550,5m2 đất nằm trong thửa đất có số hiệu cũ 989- số hiệu mới của các thửa 445, 454, một phần 446 theo bản đồ đo vẽ 1993(sau khi áp giá đền bù mở đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi còn lại) vị trí phía Tây đường Nguyễn Du thuộc tổ 5, phường Nghĩa Chánh, thành phố Quảng Ngãi.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Quyên, anh Tắc để cho vợ chồng ông Trĩ, bà Bông được sử dụng 75m2 đất. Giao cho vợ chồng bà Bông, ông Trí được sử dụng 75m2 đất. Tổng cộng tạm giao cho vợ chồng bà Bông, ông Trí được quyền sử dụng 150m2 đất phía Bắc đám đất cụ thể như sau: ở phía Bắc giáp ranh với đất của bà Lâm Thị Cúc (đất được Ủy ban nhân dân thành phố buộc giao lại cho bà Quyên) tính mép đường Nguyễn Du cách tim đường 9m kéo một đường thằng dọc theo danh giới về phía tây có chiều dài 3m giáp đất vườn ông Nguyễn Nhơn. Tại điểm này kéo một đường thẳng dọc theo ranh giới đất ông Nguyễn Nhơn và Nguyễn Văn Huệ về phía Nam có độ dài 20,5m. Tại thời điểm này kéo một đường thẳng về phía Đông sát mép đường Nguyên Du (cách tim đường 9m) có độ dài 12,9m. Tại thời điểm này kéo một đường thẳng về phía Bắc dọc theo đường Nguyễn Du đến ranh giới đất bà Cúc là 18,56m (có sơ đồ kèm theo).

Buộc vợ chồng bà Bông, ông Trĩ đốn chặt 4 cây thầu đâu, 3 cây mít, 2 cây bạch đàn và thu dọn các loại tài sản khác để tạm giao cho chị Quyên, anh Tắc được quyền sử dụng 400,5m2 đất phía Nam vườn (sau khi tạm giao cho vợ chồng bà Bông 150m2 đất phía Bắc vườn) 550,5m2-150m2 = 400,5m2.

Buộc vợ chồng bà Bông, ông Trĩ có trách nhiệm hoàn trả cho bà Chình, chị Quyên, anh Tắc số tiền trị giá 75m2 đất X 2.900.000đ = 217.500.000d và 100.0000đ tiền định giá tài sản.

Tiền chi phí giám định bà Bông phải chịu 700.000đ, bà Bông đã nộp xong.

Các đương sự có trách nhiệm đến Ủy ban nhân dân hành chính cấp có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí và nghĩa vụ do chậm thi hành án.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Lâm Thị Bông có đơn đề nghị xem xét lại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị tái thẩm số 206/2014/KNDS ngày 24/6/2014 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử tái thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm số 13/2006/DSPT ngày 02/3/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 25/2005/DSST ngày 28/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi để xét xử sơ thẩm lại.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị.

XÉT THẤY

Cụ Nguyễn Thị Thêm (chết năm 1998) có 05 người con là: ông Lâm Huê (vợ là cụ Nguyễn Thị Chín), bà Lâm Thị Chình (có chồng là ông Nguyễn Thành Lực, chết năm 1998 và có 01 người con chung là chị Nguyễn Thị Quyên), bà Lâm Thị Lương (có chồng là ông Phan Dưỡng, chết năm 2001), bà Lâm Thị Lịch (có chồng là ông Lê Văn Quảng), bà Lâm Thị Bông (có chồng là ông Võ Trĩ).

Bà Chình, chị Quyên cho rằng: năm 1976, vợ chồng bà Chình, ông Lực đổi 01 đôi bò cày (trị giá 1.400đ) để lấy 8 sào 9 thước đất (4.150m2) số hiệu 989 tại thôn Nghĩa Chánh, xã Nghĩa Lộ, thành phố Quảng Ngãi của ông La Quang Bông và ông Nguyễn Minh Luân; việc chuyển đổi này được lập thành văn bản có xác nhận đồng ý của Ủy ban nhân dân xã Nghĩa Lộ. Năm 1978, vợ chồng bà Chình có cho ông Huê mượn 500m2 để canh tác, sau đó, ông Huê tự ý cho bà Lâm Thị Cúc (là em họ của ông Huê) 100m2 để xây nhà và canh tác trên diện tích đất còn lại. Cùng trong năm 1978, bà Chình, ông Lực cho cụ Thêm mượn 500m2 đất để sản xuất. Việc cho mượn đất chỉ nói miệng không viết giấy tờ. Tuy nhiên, sau đó cụ Thêm lại cho vợ chồng bà Lâm Thị Bông, ông Võ Trĩ làm nhà và canh tác trên phần đất cụ Thêm mượn mà không được sự đồng ý của bà Chình, ông Lực. Vợ chồng bà Chình đồng ý cho bà Lâm Thị Cúc và vợ chồng bà Bông mỗi người 100m2đã làm nhà, còn các diện tích đất còn lại bà Bông đang canh tác là vợ chồng bà cho mượn. Sau khi trừ các diện tích đã cho bà Cúc, bà Bông và 1000m2 chuyển nhượng cho bà Lâm Thị Lương, ngày 26/4/1983, bà Chình đã đăng ký tại sổ đăng ký ruộng đất diện tích còn lại là 2.950m2. Ngày 11/7/1991, bà Chình, ông Lực có lập di chúc để lại 2.950m2 cho vợ chồng chị Nguyễn Thị Quyên và anh Nguyễn Tắc. Năm 2000, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thu hồi đất để mở đường Nguyễn Du, Vợ chồng bà Bông được nhận tiền đền bù đối với 246m2 đất mượn của gia đình bà Chình. Bà Chình đồng ý để bà Bông nhận hết tiền đền bù nhưng yêu cầu trả phần đất còn lại nhưng vợ chồng bà Bông không trả. Do đó, bà Chình, chị Quyên yêu cầu bà Bông, ông Trĩ trả lại diện tích 550,5m2 đất hiện ông bà đang quản lý, sử dụng và chỉ đồng ý cho vợ chồng bà Bông 75m2 đất (có nền nhà).

Bị đơn bà Lâm Thị Bông thừa nhận tuy ông Lực là người đứng tên đổi bò lấy đất, nhưng thực tế diện tích đất nêu trên là do cụ Thêm, ông Lực và ông Lê Văn Quảng góp tiền để mua chung. Năm 1978, cụ Thêm chuyển nhượng cho bà Bông 1 sào đất( 500m2) với giá 2.000đ, đến tháng 12/1983 khi bà trả đủ tiền cho cụ Thêm thì cụ mới lập Giấy chuyển nhượng cho bà, chữ viết trong giấy chuyển nhượng cho bà, chữ viết trong giấy chuyển nhượng là của anh Nguyễn Tắc chồng chị Quyên. Mặc dù cụ Thêm đã chuyển nhượng cho bà Bông 500m2 đất, sau khi mở đường đền bù 246m2 vẫn còn lại 550,5m2 là do khi nhận chuyển nhượng chỉ xác định tứ cận chứ không đo đạc cụ thể, nên diện tích đât có dôi dư: Do đó, bà Bông không chấp nhận yêu cầu đòi trả lại lại đất của bà Chình, chị Quyên.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng không có chứng cứ chứng minh diện tích đất ông Lực đứng tên chuyển nhượng là tài sản chung của cụ Thêm, ông Lực và ông Quảng; Giấy tờ cụ Thêm nhượng lại đất cho bà Bông và giấy chuyển nhượng đất ngày 26/11/1995 đều là giấy viết tay không được cơ quan có thẩm quyền xác nhận nên có cơ sở để xác định diện tích đất là của ông Lực, bà Chình, từ đó, quyết định buộc gia đình bà Bông trả lại diện tích đất đang sử dụng cho bà Chình.

Tuy nhiên, đối với diện tích đất gia đình bà Chình đòi lại của gia đình bà Cúc thì cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai đã giải quyết cụ thể: Tại Quyết định số 941/QĐ-CT ngày 05/8/2004, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Ngãi (nay là thành phố Quảng Ngãi) buộc gia đình bà Cúc trả lại đất cho bà Chình; bà Cúc khiếu nại; tại Quyết định số 1017/QĐ-UBND ngàỵ 28/4/2006, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi công nhận quyền sử dụng đất là của bà Chình. Sau đó, tại Quyết định số 898/QĐ-UBND ngày 27/7/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã hủy bỏ Quyết định số 1017/QĐ-UBND ngày 28/4/2006 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, công nhận quyền sử dụng đất là của bà Cúc, bác yêu cầu đòi đất của bà Chình. Tại Công văn số 3088/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 15/8/2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thống nhất với nội dung giải quyết tại Quyết định số 898/QĐ-UBND ngày 27/7/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Như vậy, cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai đã công nhận việc bà Cúc đã làm nhà tạo lập khuôn viên và sử dụng đất ổn định từ năm 1978 cho đến nay nên không chấp nhận yêu cầu đòi lại đất của bà Chình.

Tại Công văn số 4569/UBND-NC ngày 08/11/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xác định: Theo sổ đăng ký ruộng đất năm 1985, ông Võ Trĩ (là một trong nhưng người sử dụng thửa đất 431 tờ bản đồ số 3) có đăng ký kê khai quyền sử dụng đất theo chỉ thị 299/TTg và có tên trong sổ địa chính; đến năm 1991 (thực hiện Luật đất đai năm 1988) bản đồ ở các địa phương trong tỉnh được đo vẽ lại để phù hợp với hiện trạng sử dụng đất. Thửa số 431, tờ bản đồ số 03 được đo vẽ lại và chia thành nhiều thửa, trong đó có diện tích của ông Võ Trĩ sử dụng được lập thành thửa số 445, tờ bản đồ số 01 với diện tích 410m2; sau khi đo đạc, Nhà nước tiếp tục cho nhân dân kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và Ủy ban nhân dân cấp xã thành lập Hội đồng để xét công nhận quyền sử dụng đất cho từng họ. Hội đồng đăng ký xã Nghĩa Chánh họp xét đơn xin đăng ký ngày 29/11/1991, đồng ý đề nghị cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Trĩ thuộc thửa đất số 445, tờ bản đồ số 01 diện tích 410m2.

Như vậy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi là cơ quan quản lý đất đai tại địa phương khẳng định quá trình sử dụng đất có Tranh chấp gia đình bà Bông, ông Trĩ có đăng ký kê khai theo Chỉ thị 299/TTg của Chính Phủ, chính quyền địa phương đã công nhận hiện trạng sử dụng đất của gia đình bà Bông, đồng ý xét đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Bông. Việc xác định của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về việc công nhận quyền sử dụng đất cho bà Bông tại Công văn số 4569/UBND-NC ngày 08/11/2013 là tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung của vụ án. Do đó, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 13/2006/DSPT ngày 02/3/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 25/2005/DSST ngày 28/10/2005 của TAND thành phố Quảng Ngãi về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Lâm Thị Chình, chị Nguyễn Thị Quyên với bị đơn là bà Lâm Thị Bông, người có quyền lợi, nghĩ vụ liên quan là anh Nguyễn Tắc và ông Võ Trĩ.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 382/2014/ds-gđt ngày 19/09/2014 về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English