QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 529/2014/DS-GĐT NGÀY 18/12/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 18/12/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thấm vụ án dân sự “Tranh chấp hôn nhân gia đình” do có kháng nghị số 319/2014/KN-DS ngày 03/9/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 07/2011/HNPT ngày 14/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Lệ Trinh, sinh năm 1984; trú tại: tổ 7, thôn Sơn Hòa, xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Bị đơn: Anh Trương Tấn Phát, sinh năm 1980; trú tại: tổ 7, thôn Sơn Hòa, xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trương Khắc Khuê, sinh năm 1942;

2. Bà Nguyễn Thị Diệm, sinh năm 1943;

Đều trú tại: tổ 6, thôn Sơn Thuận, xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NHẬN THẤY

Nguyên đơn, chị Hoàng Thị Lệ Trinh trình bày: chị và anh Trương Tấn Phát kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Sơn ngày 03/01/2002. Sau khi cưới, vợ chồng không hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nhất là khoảng 03 năm nay và ly thân 07 tháng. Chị về sống với bố mẹ ruột còn anh Phát sống tại nhà của vợ chồng. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh Phát.

- Về con chung: anh chị có 02 con chung là cháu Trương Hoàng Mỹ Lệ, sinh ngày 09/9/2002, cháu Trương Hoàng Mỹ Linh, sinh ngày 02/01/2008. Ly hôn chị Trinh xin nuôi cả 02 con, không yêu cầu anh Phát cấp dưỡng.

- Về tài sản: anh chị có các tài sản:

- Diện tích 1.837m2 thuộc thửa 79 tờ bản đồ số 35 xã Xuân Sơn. Trên đất có trồng tiêu và 01 căn nhà gỗ do cha, mẹ anh Phát cho vào năm 2002. Anh Phát đứng tên sử dụng đất.

- Diện tích 175m2 thuộc thửa 75, tờ bản đồ số 35 xã Xuân Sơn do anh chị mua và đã được Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đứng tên anh Phát.

-  Diện tích 8.000m2 thuộc thửa c/91, tờ bản đồ 13 xã Suối Rao, bố mẹ anh Phát cho hai vợ chồng để canh tác vào năm 2002, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chị trả lại đất cho ông Khuê, bà Diệm nhưng yêu cầu ông Khuê, bà Diệm phải trả giá trị cây trái trên đất.

- 01 chiếc xe máy hiệu Dream là xe của bố mẹ anh Phát, chị chấp nhận trả lại cho ông Khuê, bà Diệm.

- 01 chiếc xe máy hiệu City, 01 ti vi hiệu Panasonic và những vật dụng khác trong gia đình thì chị và anh Phát tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Khi chị bỏ nhà đi thì anh Phát giữ 8.000.000đ tiền mặt, chị yêu cầu chia mỗi người hưởng 1/2.

Bị đơn, anh Trương Tấn Phát trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn và con chung như chị Trinh trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình hai người không hợp nhau nên thường hay cãi vã, xô xát nhau từ những điều nhỏ nhặt. Nay chị Trinh yêu cầu ly hôn thì anh Phát đồng ý.

Về con chung: Anh Phát yêu cầu được nuôi cháu Linh, chị Trinh nuôi cháu Lệ. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, gồm có: Diện tích 175m2 thuộc thửa 75, tờ bản đồ số 35 xã Xuân Sơn và đã được Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức cấp giấy chứng nhận quyên sử dụng đât, đứng tên anh; Các tài sản khác, gồm: 01 xe mô tô hiệu City không giấy tờ; 01 ti vi Panasonic và một số vật dụng trong gia đình thì anh và chị Trinh tự thỏa thuận; khi chị Trinh bỏ nhà đi thì anh có giữ 8.000.000đ, nhưng đã chi dùng hết.

Đối với diện tích 1.837m2 thuộc thửa 79 tờ bản đồ 35 xã Xuân Sơn, trên đất có trồng tiêu và 01 căn nhà gỗ do cha mẹ anh cho riêng anh vào năm 2002. Đất này đã được Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh.

Đối với diện tích 8.000m2 thuộc thửa c/91, tờ bản đồ 13 xã Suối Rao là đất của cha, mẹ anh cho vợ chồng mượn để trồng hoa màu và chăm sóc tiêu trên đất do cha, mẹ anh trồng. Nay ly hôn thì trả lại đất này cho cha, mẹ anh; chiếc Dream II là xe của cha mẹ anh nên trả lại cho ông Khuê, bà Diệm; các tài sản khác hai bên tự giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Trương Khắc Khuê và bà Nguyễn Thị Diệm thống nhất trình bày:

Năm 2002, ông bà có làm 01 căn nhà gỗ trên diện tích đất 1.837m2 thuộc thửa 79 tờ bản đồ 35 xã Xuân Sơn để vợ chồng Phát ra ở riêng. Năm 2005, thì cho riêng anh Phát. Trên đất trên có trồng tiêu, khi anh Phát, chị Trinh về ở thì thu hoạch và có trồng lại một số nọc tiêu bị chết.

Đối với diện tích 8.000m2 thuộc thửa c/91, tờ bản đồ 13 xã Suối Rao, ông bà cho vợ chồng anh Phát mượn. Trên đất, ông bà đã trồng tiêu, vợ chồng anh Phát chỉ có công chăm sóc. Nay vợ chồng anh Phát ly hôn, yêu cầu trả lại đất cho ông bà. Giếng khoan trên đất là do ông bà bỏ tiền ra để khoan. Đối với chiếc xe Dream II là xe của ông bà cho vợ chồng anh Phát mượn, nay yêu cầu trả lại.

Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 11/2011/HNGĐ-ST ngày 21/7/2011, Tòa án nhân dân Châu Đức quyết định:

-  Chấp nhận sự tự nguyện được ly hôn giữa chị Hoàng Thị Lệ Trinh và anh Trương Tấn Phát.

-  Giao cho chị Hoàng Thị Lệ Trinh được quyền nuôi dưỡng cháu Trương Hoàng Mỹ Lệ, sinh ngày 09/9/2002. Xử giao cho anh Trương Tấn Phát được quyền nuôi dưỡng cháu Trương Hoàng Mỹ Linh, sinh ngày 02/01/2008 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Trương Tấn Phát và chị Hoàng Thị Lệ Trinh không ai phải cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung. Anh Trương Tấn Phát và chị Hoàng Thị Lệ Trinh được quyền đi lại thăm nom, săn sóc con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng và không ai được cản trở.

- Về tài sản: giao cho anh Phát được quyền sử dụng, sở hữu 01 mảnh đất diện tích 1.837m2 thuộc thửa 79 tờ bản đồ 35 xã Xuân Sơn. Đất này đã được ủy ban nhân dân huyện Châu Đức cấp sổ đỏ cho anh Phát đúng tên vào ngày 13/01/2006, 01 căn nhà cấp 4A3, diện tích 41m2 và toàn bộ cây trái trên đất này với tổng giá trị là 137.392.000đ.

Ông Khuê, bà Diệm phải trả cho anh Phát số tiền cây trái trên thửa đất c/91, tờ bản đồ 13 xã Suối Rao là 35.945.000đ nhưng khấu trừ số tiền 2.500.000đ mà anh Phát nợ tiêu của ông Khuê, bà Diệm. Như vậy, ông Khuê, bà Diệm phải trả tiếp cho anh Phát là 33.445.000đ.

Giao cho chị Trinh được quyền sử dụng 01 nhà đất có diện tích 175mthuộc thửa 75, tờ bản đồ số 35 xã Xuân Sơn, đã được Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh Phát đứng tên, giá trị đất này là 90.000.000đ. Anh Phát phải trả thêm cho chị Trinh 11.692.000đ tiền chênh lệch tài sản.

Ông Khuê, bà Diệm phải trả cho chị Trinh 35.945.000đ tiền cây trái trên thửa c/91, tờ bản đồ 13 xã Suối Rao nhưng chị Trinh phải trả cho ông Khuê, bà Diệm 2.500.000đ tiền nợ tiêu, số tiền còn lại ông Khuê, bà Diệm phải trả cho chị Trinh là 33.445.000đ.

Ông Khuê, bà Diệm được sở hữu toàn bộ cây trái trên diện tích đất 8.000mthuộc thửa c/91, tờ bản đồ 13 xã Suối Rao có giá trị là 71.890.000đ.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 01/8/2011, anh Trương Tấn Phát kháng cáo yêu cầu công nhận mảnh đất diện tích 1.837m2 thuộc thửa 79 tờ bản đồ 35 xã Xuân Sơn và 01 căn nhà cấp 4A3, diện tích 41m2 và toàn bộ cây trái trên thửa 79 là tài sản riêng của anh, do anh được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Tại Bản án hôn nhân phúc thẩm số 07/2011/HNPT ngày 14/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của anh Trương Tấn Phát.

Sửa bản án hôn nhân gia đình số 11/2011/HNGĐ-ST ngày 21/7/2011 của Tòa án nhân dân Châu Đức về phần chia tài sản chung, các phần quyết định khác vẫn giữ nguyên.

- Về tài sản:

Chị Trinh được quyền sử dụng diện tích đất 175m2 thuộc thửa 75, tờ bản đồ số 35 xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức và có tranh chấp thanh toán cho anh Phát số tiền 45.000.000đ.

Anh Trương Tấn Phát được quyền sử dụng diện tích đất 1.820m2 thuộc thửa 79, tờ bản đồ số 35 xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức và được quyền sở hữu 01 căn nhà cấp 4A3, diện tích 41m2 và toàn bộ cây trồng trên đất. Anh Phát có nghĩa vụ thanh toán cho chị Trinh số tiền 12.730.000đ.

Bác yêu cầu của chị Trinh về việc yêu cầu được chia Vi diện tích 1.820mthuộc thửa 79, tờ bản đồ số 35 xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức và Vi căn nhà cấp 4A3, diện tích 41m2 có trên đất.

Anh Phát và chị Trinh có trách nhiệm giao trả cho ông Trương Khắc Khuê và bà Nguyễn Thị Diệm diện tích đất thuộc thửa đất c/91, tờ bản đồ 13 xã Suối Rao, huyện Châu Đức. ông Khuê và bà Diệm được quyền sở hữu toàn bộ cây trồng có trên thửa c/91 nêu trên và có trách nhiệm thanh toán cho anh Phát và chị Trinh mỗi người 33.445.000đ.

Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Hoàng Thị Lệ Trinh có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 319/2014/KN-DS ngày 03/9/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 07/2011/HNPT ngày 14/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm đối với phần cây trồng trên đất thuộc thửa 79, tờ bản đồ số 35 diện tích 1.837m2 nêu trên để xét xử phúc thẩm lại.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Những căn cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện về diện tích 1.837m2 đất thuộc thửa 79, tờ bản đồ số 35:

1-  Về nhà đất: chị Trinh cho rằng ông Khuê, bà Diệm đã cho vợ chồng chị toàn bộ diện tích nhà đất nêu trên nhưng để anh Phát đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Anh Phát không thừa nhận và khẳng định ông Khuê, bà Diệm cho riêng anh trong thời kỳ hôn nhân. Chị Trinh không cung cấp được tài liệu để chứng minh, đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm chị Trinh thừa nhận ông Khuê, bà Diệm đã cho riêng anh Phát toàn bộ diện tích đất nêu trên.

Trong quá trình tố tụng ông Khuê, bà Diệm đều xác định nhà đât nêu trễn ông, bà đã cho riêng anh Phát vào năm 2005; theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức cấp ngày 05/10/2005 thì ông Khuê được quyền sử dụng 1.837m2 tại thửa 79, tờ bản đồ số 35. Ngày 08/12/2005 ông Khuê, bà Diệm tặng cho anh Phát toàn bộ diện tích đất nêu trên theo họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 265/12, trong hợp đồng ghi rõ đại diện bên chuyến nhượng là ông Khuê, bà Diệm, đại diện bên nhận chuyển nhượng là anh Phát và được Ủy ban nhân dân xã Xuân Sơn chứng thực ngày 20/12/2005, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Châu Đức xác nhận ngày 13/01/2006.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định nhà đất nêu trên anh Phát được bố tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nên là tài sản riêng của anh Phát. Tòa án cấp sơ thẩm xác định nhà đất trên là tài sản chung của chị Trinh, anh Phát được ông Khuê, bà Diệm cho trong thời kỳ hôn nhân để chia cho anh Phát được hưởng 2/3 và chị Trinh được hưởng 1/3 giá trị tài sản là không đúng. Tòa án cấp phuc thâm xác định nhà đất trên là tài sản riêng của anh Phát và giao cho anh Phát được quyền sở hữu, sử dụng là đúng.

2-  Về cây trồng trên đất: Chị Trinh, anh Phát đều thừa nhận khi ông Khuê, bà Diệm giao đất cho anh, chị canh tác thì ông Khuê, bà Diệm đã trồng tiêu trên đất; chị Trinh, anh Phát chỉ chăm sóc, thu hoạch và trồng lại những cây tiêu bị chết, không đầu tư gì trên đất. Chị Trinh cho rằng do cơn bão năm 2004 làm chết gần hết số tiêu cũ nên vợ chồng chị phải trồng lại toàn bộ. Anh Phát cho rằng chỉ trồng lại khoảng Vỉ số cây tiêu. Như vậy, anh Phát và chị Trinh khai không thống nhất về số lượng cây tiêu được trồng lại nhưng anh Phát, chị Trinh đều không đưa ra được chứng cứ gì để chứng minh. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét đến công chăm sóc và trồng lại nhũng cây tiêu bị chết, từ đó xác định số cây trồng trên đất là tài sản chung của chị Trinh, anh Phát đế chia là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định anh Phát có công sức đóng góp nhiều hơn vào việc tạo lập tài sản chung đế chia cho anh Phát được hưởng 2/3, còn chị Trinh được hưởng 1/3 giá trị cây trồng trên đất là chưa bảo đảm quyền lợi cho chị Trinh. Trong trường họp này, cần phải xác định công sức đóng góp của chị Trinh tương ứng với công sức đóng góp của anh Phát về phần cây trồng trên đất để đảm bảo quyền lợi cho chị Trinh.

Vì vậy, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị hủy một phần bản án phúc thẩm nêu trên là càn thiết.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

- Hủy bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 07/2011/HNPT ngày 14/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đối với phần cây trồng trên đất thuộc thửa đất số 79, tờ bản đồ số 35 diện tích 1.837m2 về vụ án “Hôn nhân gia đình” giữa nguyên đơn là chị Hoàng Thị Lệ Trinh với bị đơn là anh Trương Tấn Phát; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trương Khắc Khuê và bà Nguyễn Thị Diệm.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 529/2014/DS-GĐT ngày 18/12/2014 về vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án