Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

Bài 1:

Trong 3 chiếc tàu đã nêu: -  tàu X là tàu quân sự

-      tàu Y (tàu chở khách) và tàu Z (tàu chở hàng) là tàu dân sự dùng trong lĩnh vực thương mại

a.    

Ø Trường hợp tàu X vi phạm pháp luật ở vùng nội thủy của quốc gia A:

Căn cứ tiểu mục C của Công ước luật biển 1982, vì tàu X là tàu quân sự nên được hưởng quyền miễn trừ tuyệt đối về tư pháp và được coi là bất khả xâm phạm. Quốc gia A không có quyền tài phán hành vi vi phạm và thiệt hại do tàu X gây ra.

Trong trường hợp này, quốc gia A có quyền:

-      Yêu cầu tàu X ra khỏi nội thủy trong một thời gian nhất định (Điều 30 CƯ);

-      Yêu cầu quốc gia có tàu X phải áp dụng chế tài hợp pháp với thủy thủ vi phạm;

-      Yêu cầu quốc gia có tàu X phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của tàu X gây ra trong thời gian đậu ở nội thủy của quốc gia A (Điều 31 CƯ).

Ø Trường hợp tàu Y và tàu Z vi phạm pháp luật ở vùng nội thủy của quốc gia A:

v Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm hình sự: Tàu Y và tàu Z phải chịu sự tài phán của quốc gia A. Quốc gia A có quyền bắt giữ, truy tố, xét xử theo pháp luật của nước mình trước Tòa án của nước mình đối với hành vi phạm pháp trên nội thủy của 2 tàu này (khoản 2 Điều 27 CƯ). Những hành động phạm pháp xảy ra trên tàu trong thời gian tàu đang đậu ở nội thủy của quốc gia A thì quốc gia A có quyền xét xử trong các trường hợp sau:

-      Nếu hành vi phạm tội do một người ngoài thủy thủ đoàn thực hiện;

-      Nếu thuyền trưởng yêu cầu chính quyền nước A can thiệp;

-      Nếu hậu quả của nó ảnh hưởng tới an ninh trật tự của nội thủy.

v Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm dân sự: Tòa án của quốc gia A có quyền xét xử các vụ kiện dân sự (khoản 3 Điều 28 CƯ):

-      Giữa tàu Y và tàu Z với nhau hoặc với các tàu nước ngoài khác cùng đậu ở nội thủy của quốc gia A;

-      Giữa thủy thủ đoàn của tàu với công dân nước A.

v Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm hành chính: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A có quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với tàu và thủy thủ đoàn của tàu Y, Z khi vi phạm pháp luật trong lãnh thổ của quốc gia A (Nội thủy là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia).

b.    

Ø Về mặt hình sự: Nếu nhân viên của 3 chiếc tàu trên vi phạm pháp luật hình sự quốc gia A khi đã lên trên bờ thì quốc gia A có thẩm quyền bắt giữ, truy tố và xét xử hành vi phạm tội theo pháp luật hình sự của quốc gia A.

Ø Về mặt dân sự: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A có quyền xét xử các vụ kiện dân sự có liên quan đến nhân viên của 3 chiếc tàu này khi họ đã lên bờ.

Ø Về mặt hành chính: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A có quyền điều tra, xem xét các vụ vi phạm hành chính của các nhân viên 3 chiếc tàu này khi họ đã lên trên bờ.

 

Bài 2:

a. Đối với tàu đánh cá:

Tàu đánh cá của quốc gia B khi đi qua đang đi qua lãnh hải của quốc gia cho 1 máy bay dân sự (đang đậu trên tàu) cất cánh thì tàu đánh cá này đã vi phạm quy định về quyền đi qua không gây hại tại Điều 17 Công ước về Luật Biển 1982. Cụ thể, việc tàu đánh cá đi qua lãnh hải và cho máy bay đang đậu trên tàu cất cánh được xem là phương hại đến hòa bình, an ninh, trật tự của quốc gia ven biển, được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 19 của Công ước về Luật Biển 1982. Theo đó: “Việc đi qua của một tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau đây:

d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;

…”.

Như vậy, khi tàu này có vi phạm, quốc gia ven biển được phép thực hiện các biện pháp nhằm ngăn cản việc đi qua có hại theo quy định tại Điều 25 của Công ước về Luật Biển 1982  và có quyền tài phán về mặt hình sự đối với tàu đánh cá nước B, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 27 của Công ước về Luật Biển 1982.

Điều 25. Quyền bảo vệ các quốc gia ven biển

1. Quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại.

2. Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng ở bên ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để được phép vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.

3. Quốc gia ven biển có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của mình, kể cả để thử vũ khí, nhưng không được phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.

Điều 27. Quyền tài phán hình sự ở trên một tàu nước ngoài

1. Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:

a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;

b) Nếu v vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;

c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc

d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.

2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong nước mình qui định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.

3. Trong những trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các biện pháp đang được thi hành.

4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải.

5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy.

b. Đối với máy bay dân sự:

Lãnh hải bảo gồm lớp nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời bao trùm trên lãnh hải. Trong đó, đối với đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời bao trùm lên lãnh hải, quốc gia ven biển có chủ quyền tuyệt đối. Vùng trời bao trùm trên lãnh hải là một bộ phận cấu thành vùng trời quốc gia, do đó, quốc gia có chủ quyền tối cao và trọn vẹn trong việc thiết lập và thực hiện các quyền năng về chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các vấn đề pháp lý liên quan. Cụ thể, các quốc gia có quyền quyết định chế độ pháp lý của vùng trời nước mình một cách độc lập cũng như quy định trình tự, thủ tục và các điều kiện mà phương tiện bay nước ngoài sử dụng vùng trời quốc gia phải đáp ứng, quốc gia sẽ không cho phép bất kì một loại phương tiện giao thông nào của nước ngoài qua lại không gây hại trên lãnh thổ của mình. Mọi hành vi qua lại của người, phương tiện giao thông nước ngoài đều xin phép, hoặc áp dụng theo những quy định của các điều ước quốc tế đã được các quốc gia hữu quan kí kết. Mọi hành vi tự ý bay vào không được sự cho phép của quốc gia sở tại đều là hành vi xâm phạm vào lãnh thổ quốc gia. Như vậy, hành vi vi phạm của máy bay dân sự sẽ không được điều chỉnh, xử lý bằng Công ước về Luật viển 1982 mà bằng luật của quốc gia A.

 

Bài 3:

è Đối với tàu chở hàng của quốc gia B:

Vì đề bài không cho rõ dữ liệu nên nhóm chia ra các trường hợp sau:

-      Nếu tàu này không có sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của mình thì quốc gia A không có quyền gì cả.

-      Nếu có sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư thì tùy vào hướng đi của con tàu này mà sẽ giải quyết như sau:

·     Tàu này đang đi theo hướng vào vùng lãnh hải thì quốc gia A được quyềntiến hành các biện pháp kiểm soát cần thiết, nhằm ngăn chặn sự vi phạm.

·     Tàu này đang từ vùng tiếp giáp đi ra vùng biển quốc tế và sự vi phạm này không  xảy ra trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A không được quyền làm gì cả.

·     Tàu này đi ra vùng biển quốc tế nhưng sự vi phạn này xảy ra trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A được quyền trừng trị sự vi phạm đó đối với chiếc tàu này.

Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 33 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.

è Đối với tàu hàng của quốc gia A:

Quốc gia A sẽ có đầy đủ các quyền tài phán theo quy định và pháp luật của quốc gia A. Bởi lẽ, đây là tàu hàng của quốc gia A nên phải hoạt động và chịu sự điều chỉnh của pháp luật do quốc gia A ban hành. Trong trường hợp việc bốc dỡ container hàng chứa xe hơi này vi phạm các quy định về thuế hay hải quan thì quốc gia A có toàn quyền thực hiện các quyền tài phán của quốc gia mình đối với con tàu hàng này.

è Đối với chiếc máy bay dân sự cất cánh từ vùng tiếp giáp lãnh hải:

Theo nhóm cần chia ra hai trường hợp, nếu chiếc tàu dân sự này cất cánh bay về phía lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A có quyền ngăn chặn không cho phép máy bay trên bay vào bởi lẽ máy bay là phương tiện bay và không được hưởng quyền đi qua không gây hại dành cho tàu biển theo quy định tại Điều 17 Công ước về luật biển 1982 của Liên Hợp quốc. Còn trong trường hợp máy bay này bay ra phía biển quốc tế, thì quốc gia A không có quyền gì đối với máy bay dân sự này.

 

Bài 4:

1.    Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền kinh tế:

Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải rộng không quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải, và được đặt dưới chế độ pháp lý riêng theo đó các quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển cũng như các quyền và các quyền tự do của quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.  

Cơ sở pháp lý: Điều 55 Công ước LHQ về Luật biển 1982.

Vùng đặc quyền về kinh tế không phải là biển cả mà là một vùng đặc thù sui generic, trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích kinh tế được Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 quy định. Để xác lập vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển cần đưa ra tuyên bố về vùng đặc quyền về kinh tế để xác lập quyền của mình.

v Các quyền, quyền tài phán và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế:

Theo Điều 56 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982, trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:

a) Các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.

b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:

i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;

ii. Nghiên cứu khoa học về biển;

iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;

c) Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.

Đồng thời, trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác đều được hưởng quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm cũng như quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước (Điều 58 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982).

2.  Giải quyết tình huống pháp lý:

a) Tàu của nước B thực hiện việc đánh bắt hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế của nước A.

Trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A, tàu của quốc gia B thực hiện đánh bắt hải sản. Vậy quốc gia A có quyền gì đối với tàu của quốc gia B hay không? Để giải quyết tình huống này nhóm xin đặt ra 3 trường hợp sau:

Thứ nhất, trong trường hợp quốc gia A cho phép tàu của quốc gia B được khai thác đánh bắt số lượng cá dư thông qua các điều ước hoặc các thỏa thuận khác tại Điều 62 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 và đồng thời tàu của quốc gia B cũng đã tuân thủ các biện pháp bảo tồn và các thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc gia A thì việc tàu quốc gia B thực hiện đánh bắt hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A là hợp pháp. Quốc gia A có các quyền đối với tàu đánh bắt hải sản của quốc gia B về các vấn đề được quy định tại Khoản 4 Điều 62 Công ước LHQ về Luật biển 1982.

Ví dụ: Vào năm 2000 giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHDCND Trung Hoa đã ký với nhau “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ”. Qua sáu vòng  đàm phán cấp chuyên viên về nghề cá, qua thương lượng, hai bên đã nhất trí hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ bằng việc thiết lập một Vùng đánh cá chung. Phạm vi Vùng đánh cá chung trong vịnh Bắc Bộ từ vĩ tuyến 20° Bắc xuống đường đóng cửa Vịnh, bề rộng là 30,5 hải lý kể từ đường phân định về mỗi phía; có tổng diện tích là 33.500 km², khoảng 27,9% diện tích Vịnh. Thời hạn của Vùng đánh cá chung là 15 năm (12 năm chính thức và ba năm gia hạn).

Thứ hai, đối với trường hợp cả hai nước đều không thỏa thuận hay ký kết các điều ước cho phép khai thác đánh bắt số lượng cá dư ở quốc gia A, thì lúc này việc đánh bắt cá của tàu quốc gia B là trái phép, không hợp pháp, đã xâm phạm đến lợi ích về quản lý khai thác tài nguyên sinh vật của quốc gia A. Do đó, quốc gia A sẽ có các quyền tài phán xử lý hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 73 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982. Quốc gia A có quyền thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các quy định mà họ đã ban hành theo đúng Công ước. Tuy nhiên, cần lưu ý:

-      Khi có sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.

-      Không được áp dụng các hình phạt giam giữ cũng như các hình phạt thân thể khác nếu không có thỏa thuận khác.

-      Phải thông báo ngay cho quốc gia B biết các biện pháp cũng như các chế tài áp dụng đối với hành vi đánh bắt cá trái phép đối với tàu của quốc gia B.

Ví dụ: Giới chức Philippines ngày 17/5/2016 xác nhận vụ bắt giữ hai tàu cá Trung Quốc cùng 25 ngư dân, khi các tàu giả treo cờ Philippines và đánh bắt trộm trong vùng biển nước này.

Cảnh sát biển  Philippines phối hợp với Cục Nghề cá và Nguồn lợi thủy sản (BFAR) bắt giữ 2 tàu cá Trung Quốc ở giữa khu vực vùng biển ngoài khơi đảo Babuyan và tỉnh Batanes, phía Bắc Philippines.

Vị trí hai tàu bị bắt gặp có hoạt động đánh bắt trái phép nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, không phải trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.

Thứ ba, dựa vào vùng có tính chất lịch sử (ngư trường đánh bắt truyền thống). Nếu tàu của quốc gia B đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A nhưng đây lại là vùng có tính chất lịch sử của quốc gia B và quốc gia B đã có căn cứ chứng minh về vùng nước này thì việc đánh bắt cá của tàu trong trường hợp này là hợp pháp. Bởi lẽ đây là vùng mà ngư dân quốc gia B đã khai thác, sử dụng lâu đời được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đồng thời đây là vùng nước mang lại nguồn cung cấp kinh tế rất lớn, chủ yếu cho quốc gia B nên tàu của quốc gia B có quyền đánh bắt cá trên vùng có tính chất lịch sử của quốc gia mình hay còn gọi là ngư trường đánh bắt truyền thống.

Ví dụ: Indonesia vốn không phải một bên trong cuộc tranh chấp trên biển Đông, nhưng nước này đã bị kéo vào cuộc, sau khi Bắc Kinh tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế gần quần đảo Natuna của Indonesia là một phần trong “ngư trường đánh cá truyền thống” của Trung Quốc và tàu cá Trung Quốc được tự do đánh bắt trong khu vực này.

Tất nhiên, Indonesia không xem vùng đặc quyền kinh tế của mình là “ngư trường truyền thống” của Trung Quốc, luận điệu mà Bắc Kinh thường xuyên lặp lại. Thay vào đó, Jakarta coi hoạt động đánh cá của các nước khác ở khu vực này là trộm cắp.

Bộ trưởng Các vấn đề hàng hải và ngư nghiệp Indonesia đã phát biểu: “Chúng tôi không biết về điều này (như Trung Quốc tuyên bố), chúng tôi không công nhận bất kỳ tuyên bố chủ quyền của bên nào về ngư trường bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia; ngoại trừ một vùng mà chúng tôi đã ký thỏa thuận với Malaysia ở Eo Malacca”.

b) Quốc gia B cho máy bay hạ cánh xuống tàu.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (CƯLB 1982), trong vùng đặc quyền  kinh tế, tất cả các quốc gia, dù là quốc gia đó có biển hay không có biển thuộc trong những điều kiện, những quy định thích hợp của Công ước đã trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không,… nêu ở Điều 87 của Công ước này.

Đối với hành động cho máy bay hạ cánh xuống tàu của quốc gia B đang ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A thì theo quy định của CƯLB 1982 đã trình bày ở trên, có thể thấy tàu thuyền, máy bay của quốc gia B có quyền được tự do hàng hải và tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Tuy nhiên, với dữ kiện đề đưa ra ta có thể chia thành 2 trường hợp và tùy từng trường hợp cụ thể mà quốc gia A có quyền đối với tàu và máy bay của quốc gia B khác nhau:

Thứ nhất, theo quy định của khoản 2 Điều 58 CƯLB 1982 nếu quốc gia B thực hiện quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do sử dụng biển thông qua hành động cho hạ cánh máy bay xuống tàu nhằm những mục đích khác nhau nhưng đảm bảo tính hợp pháp về mặt quốc tế gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do hàng hải, hàng không của mình trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Mục đích cho hạ cánh máy bay phải nhằm thực hiện hoạt động thích hợp với các quy tắc, pháp luật quốc tế qui định được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế, thực hiện hoạt động tự do nhưng trong chừng mực, khuôn khổ cho phép và không mâu thuẫn với phần V của Công ước, phù hợp với các quy định khác của CƯLB 1982, thì máy bay của quốc gia B có quyền tự do hạ cánh xuống tàu của quốc gia mình khi ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Do đó, trong trường hợp này quốc gia A không có quyền đối với hoạt động của tàu và máy bay nói trên.

Thứ hai, tàu thuyền, máy bay của quốc gia B có quyền tự do hàng hải và tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A nhưng tàu thuyền, máy bay của họ thực hiện các hoạt động gắn liền với các quyền này bằng việc cho máy bay hạ cánh xuống tàu nhằm mục đích thực hiện những hoạt động nằm ngoài khuôn khổ được khai thác theo quy định, không phù hợp, vượt quá giới hạn hay mâu thuẫn với phần V cũng như các quy định khác của CƯLB 1982 hoặc vi phạm các qui định pháp luật của quốc gia A đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và không mâu thuẫn với các quy tắc khác của pháp luật quốc tế thì theo khoản 3 Điều 53 CƯLB 1982, quốc gia A có quyền áp dụng pháp luật quốc gia của mình đã ban hành cụ thể, điều chỉnh các hoạt động mà tàu, máy bay nói trên vi phạm (nếu có). Ngoài ra, quốc gia A còn có quyền dùng các quy tắc khác của pháp luật quốc tế để xử lý đối với hành vi vi phạm của tàu và máy bay của quốc gia B đã thực hiện.

Ví dụ: Malaysia bị sốc trước hai đợt tập trận trong vòng chưa đầy một năm của hải quân Trung Quốc gần bãi cạn James nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Bắc Kinh xem bãi cạn James là phần lãnh thổ cực Nam của nước này. Tháng 3/2013, Malaysia từng phản đối 4 tàu Trung Quốc xâm nhập James. Các thủy thủ Trung Quốc đã bắn chỉ thiên khi ghé vào bãi cạn này. Sau đó, tháng 4/2013, 1 tàu hải giám Trung Quốc quay lại bãi cạn James và đặt ở đó những cột bằng thép đánh dấu chủ quyền.

Quan chức ngoại giao của Malaysia cho biết, vụ việc hải quân Trung Quốc tập trận gần bãi cạn James khiến Malaysia quyết định thúc đẩy hợp tác với các quốc gia khác trong ASEAN, nhằm khiến Trung Quốc phải tuân thủ quy tắc ứng xử trên biển Đông. Những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông cũng có thể đẩy Malaysia xích lại gần Mỹ hơn. Trước đó, Malaysia thường hạ nhiệt các lo ngại về an ninh nhằm theo đuổi quan hệ kinh tế thân thiết hơn với đối tác thương mại lớn, nhất là Trung Quốc.

 

Bài 5:

Giả sử quốc gia A có biển sâu. Vì vậy, quốc gia A chỉ áp dụng đường cơ sở để xác định chiều rộng của thềm lục địa trong trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở (không áp dụng đường đẳng sâu 2.500m để xác định chiều rộng của thềm lục địa).

Quốc gia A sẽ có quyền khai thác dầu khí trong khu vực cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải 280 hải lý trong hai (02) trường hợp sau:

(1)Trường hợp 1: Bờ ngoài của rìa lục địa quốc gia A nhỏ hơn 280 hải l kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

-      Trong trường hợp này, khu vực cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải 280 hải lý này sẽ nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia A và thuộc phần Biển quốc tế và Vùng (Đáy đại dương). Theo khoản 1 Điều 1 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 thì “vùng (zone) là toàn bộ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán của quốc gia”. Như vậy, việc quốc gia A tiến hành việc khai thác dầu khí tại khu vực 280 hải lý tức là quốc gia A đang tiến hành khai thác dầu khí tại phần Vùng (Đáy đại dương). Mà căn cứ theo quy định tại Điều 136 và khoản 1 Điều 137 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 thì vùng (đáy đại dương) và tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại và không một quốc gia nào có quyền đòi hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó. 

è Vậy nên quốc gia A không có quyền khai thác dầu khí tại khu vực này như một quyền thuộc quyền chủ quyền của mình.

è Tuy nhiên, quốc gia A vẫn có thể tiến hành khai thác dầu khí tại khu vực này nhưng không được thực hiện một cách tự do mà phải được tổ chức một cách có hiệu quả; phải tuân theo pháp luật, tập quán quốc tế và phải đặt dưới sự điều hành, kiểm soát của Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển (khoản 2 Điều 1 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982). Đây là một tổ chức quốc tế liên chính phủ, được thành lập theo phần XI của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nhằm mục đích bảo đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử những lợi ích tài chính và những lợi ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng thông qua bộ máy của mình. Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển có quyền tự quyết định khai thác hoặc cho các nước khai thác theo điều kiện do cơ quan đó quyết định.

·     Nghĩa vụ của quốc gia A trong trường hợp này:

-      Trước hết, vùng phải được sử dụng nhằm mục đích hoà bình và an ninh quốc tế, vì lợi ích thúc đẩy sự hợp tác quốc tế.

-      Bên cạnh đó, hoạt động khai thác dầu khí của quốc gia A ở vùng phải được tiến hành vì mục đích:

+ Phục vụ toàn thể loài người (Điều 140 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982);

+ Mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt vị trí địa lý, nước có biển hay không có biển (Điều 141 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982);

+ Đặc biệt chú ý đến nhu cầu của các nước đang phát triển (Điều 148 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982).

-      Quốc gia A phải tôn trọng đầy đủ các quyền lợi chính đáng của quốc gia ven biển (Điều 142 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982).

-      Các hiện vật có tính chất cổ và lịch sử tìm thấy trong vùng sẽ được bảo tồn và định đoạt vì lợi ích của toàn thể loài người (Điều 149 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982).

-      Quốc gia A phải tuân thủ các quy định tại Mục 3, Phần IX Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 về khai thác các tài nguyên của vùng.

 

(2)Trường hợp 2: Bờ ngoài của rìa lục địa quốc gia A lớn hơn hoặc bằng 280 hải l kể từ đường cở sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

-      Trong trường hợp này, vùng thềm lục địa pháp lý của quốc gia A có thể sẽ nằm trong phạm vi 280 hải lý đến tối đa 350 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (Điều 76 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982). Như vậy, việc quốc gia A tiến hành khai thác dầu khí trong khu vực cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải 280 hải lý này được thực hiện trong khu vực thềm lục địa của quốc gia A.

è Do đó, quốc gia A có quyền khai thác dầu khí trong khu vực này bởi vì quốc gia ven biển được thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, tài nguyên không sinh vật như dầu khí, các tài nguyên sinh vật như cá, tôm…) của mình. Vì đây là đặc quyền của quốc gia A nên không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thỏa thuận với quốc gia A. Nghĩa là chỉ quốc gia A mới có quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì. Tuy nhiên, quốc gia A khi thực hiện quyền đối với thềm lục địa của mình không được đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước phía trên, không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia khác.

-      Cơ sở pháp lý: Điều 77 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982.

·     Nghĩa vụ của quốc gia A trong trường hợp này:

-      Thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa của mình khi thềm lục địa mở rộng quá 200 hải l tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa (Khoản 8 Điều 76 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);

-      Gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc các tài liệu cần thiết để chỉ rõ một cách thường xuyên thềm lục địa của mình (Khoản 9 Điều 76 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);

-      Không cản trở chế độ pháp lý của vùng nước phía trên và vùng trời phía trong vùng nước đó (Điều 78 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);

-      Không cản trở quốc gia khác đặt dây cáp ngầm và ống dẫn ngầm trên thềm lục địa (Điều 79 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);

-      Do quốc gia A tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở nên A phải nộp một khoản đóng góp bằng tiền hay hiện vật về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không sinh vật (Điều 82 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982).

 

Bài 6:

         Tàu quân sự của quốc gia  B đi qua lãnh hải (không vào nội thủy) của quốc gia A. Việc chỉ trình bày việc đi qua (passage) theo điểm a khoản 1 Điều 18 UNCLOS 1982, chưa thể xác định được cơ chế pháp lý được áp dụng với tàu quân sự của quốc gia B này khi xâm nhập lãnh hải của quốc gia ven biển, do đó để giải quyết cần thiết việc chia trường hợp là đi qua không gây hại hay đi qua gây qua gây hai.

Trường hợp 1: đi qua không gây hại.

A. Tàu quân sự của nước a được phép đi qua lãnh hải mà không cần xin phép vì đây  là quyền được đi qua không gây hại mà bất kỳ tàu biển nào cũng được hưởng theo Điều 17 UNCLOS 1982, quốc gia ven biển có trách nhiệm tạo điều kiện cho tàu biển được thực hiện quyền này theo khoản 1 Điều 24 Công ước này. Tuy nhiên, Tàu quân sự nước B phải thông báo cho A và phải tuân thủ các luật và quy định của Luật biển.

B. Theo nhóm, việc tàu quân sự của quốc gia B đi qua lãnh hải của quốc gia A cần phải thông báo trước cho quốc gia A và phải tuân theo nguyên tắc đi qua không gây hại trong lãnh hải theo tiểu mục A, Mục 3 Công ước Viên Luật biển 1982.

Tuy không có quy định cụ thể nào trong Công ước viên của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 quy định về việc tàu quân sự nước ngoài phải thông báo trước cho quốc gia ven biển được biết về việc tàu quân sự nước ngoài đi vào lãnh hải của quốc gia mình. Nhưng xét thấy các quy định trong Công ước đã gợi mở cho các quốc gia ven biển có quyền thiết lập các biện pháp cần thiết nhằm ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại, được biểu đạt qua các lập luận sau:

(i) Theo Điều 19 (Nghĩa của thuật ngữ đi qua không gây hại) và Điều 25 (Quyền bảo vệ của quốc gia ven biển), Quốc gia ven biển có quyền thi hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia, điều này sẽ bao gồm cả việc yêu cầu tàu quân sự nước ngoài phải tiến hành thông báo trước khi vào lãnh hải của quốc gia đó. Khoản 1 Điều 25 quy định rằng quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua gây hại. Khoản 3 Điều 25 cho phép quốc gia ven biển đình chỉ thực hiện việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh.

(ii) Các quy định tại Điều 30 Công ước Luật biển 1982 liên quan đến việc tàu chiến không tuân thủ các luật và quy định của quốc gia ven biển khi đi qua lãnh hải, cho phép quốc gia ven biển được xây dựng các luật lệ về lãnh hải. Do đó, các quốc gia này có thể đưa ra những quy định bắt buộc tàu quân sự phải xin phép hoặc thông báo trước khi vào lãnh hải trong luật lệ của mình.

(iii) Hơn nữa, Lãnh hải luôn là một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển và thuộc chủ quyền của quốc gia. Vì vậy, theo nguyên tắc bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, quốc gia ven biển được phép áp dụng các quy định trên.

C. Dựa vào khoản 2 Điều 12 Luật Biển Việt Nam 2012 quy định: “Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam”. Chính vì thế khi tàu quân sự nước B đi qua lãnh hải của Việt Nam phải có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.

Nhìn nhận quy định phải thông báo đối với hành vi đi qua không gây hại của tàu quân sự dưới lăng kính của luật quốc tế, thì nhiều người có thể đánh giá rằng quy định này vi phạm nguyên tắc tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết, bởi theo quy định tại Điều 17 đây là quyền của tất cả các tàu thuyền, hơn nữa không có một quy chế cụ thể nào trong Công ước ràng buộc để quốc gia ven biển có thể hạn chế quyền đi qua không gây hại như yêu cầu phải xin phép, thông báo. Tuy nhiên nhóm cho rằng đánh giá như trên là không thuyết phục, và quy định của Điều 12 Luật biển Việt Nam hợp lý, tuân thủ Công ước:

Một, lãnh hải là một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển và thuộc chủ quyền của quốc gia. Vì vậy, theo nguyên tắc bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, quốc gia ven biển được phép áp dụng.

Hai là, tại khoản 1 Điều 19 Công ước quy định “không làm phương hại đến hòa bình trật tự và an ninh của quốc gia viên biển”. Việc tàu quân sự đi qua lãnh thổ một quốc gia dù ít hay nhiều cũng hàm chứa những rủi ro nhất định, nên việc yêu cầu thông báo, như là một sự chuẩn bị sự phòng vệ của quốc gia quen biển,

Ba là, pháp luật Việt Nam chỉ quy định là phải “thông báo”, việc thông báo này không hạn chế quyền đi qua không gây hại, mà nó gần giống như một thủ tục báo trước đối với Việt Nam.

Bốn, các quy định tại Điều 30 Công ước Luật biển 1982 liên quan đến việc tàu chiến không tuân thủ các luật và quy định của quốc gia ven biển khi đi qua lãnh hải, cho phép quốc gia ven biển được xây dựng các luật lệ về lãnh hải. Do đó, các quốc gia này có thể đưa ra những quy định bắt buộc tàu quân sự phải xin phép hoặc thông báo trước khi vào lãnh hải trong luật lệ của mình.

Cuối cùng, quy định này không chỉ được Việt Nam áp dụng, mà nó còn được cái nước áp dụng một cách rộng rãi, và dần trở thành một “nguyên tắc” trong quy chế đi qua không gây hại của tàu quân sự trong lãnh hải quốc gia. Điển hình như đối với một số các quốc gia như Croatia, Egypt, Finland, Guyana, India, South Korea, Libya, Malta, Mauritius, và Serbia phải tiến hành thủ tục thông báo trước.

Trường hợp hai: đi qua gây hại.

 Đây là trường hợp tàu quân sự quốc gia B mặc dù đi qua lãnh hải không vào nội thủy, đi liên tục hành chóng nhưng có một hoặc một số hoạt động quy định tại khoản 2 điều 19 UNCLOS.

a.   Tàu quân sự này bắt buộc phải xin phép quốc gia ven biển, trừ trường hợp quốc gia có tàu quân sự và quốc gia ven biển có thỏa thuận khác, bởi đây là lãnh thổ của quốc gia ven biển, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ. Tàu quân sự có những hoạt động gây hại không được hưởng các quyền được quy định tại Điều 17. Phải xin phép và tuân thủ các quy định pháp luật của quốc gia ven biển, chịu một số hạn chế nhất định. Mặc khác theo quy định tại khoản 1 Điều 25 UNCLOS “quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn chặn mọi việc đi qua có hại”. Đối với các trường hợp đi qua gây hại, thì thường các quốc gia quen biển sẽ không cho phép hành vi này diễn ra trên lãnh hải quốc gia mình.

b.   Trong Công ước không có quy định cụ thể về việc thông báo, tuy nhiên có thể căn cứ theo điều 25, quốc gia ven biển có thể yêu cầu tàu quân sự đi qua gây hại có thể thông báo hoặc không thông báo, tuy nhiên trước đó vẫn phải thực hiện nghĩa vụ xin phép, trừ trường hợp hai quốc gia có thỏa thuận khác.

c.   Trước hết là pháp luật Việt Nam không có quy định trực tiếp về giải quyết việc đi qua gây hại. Tuy nhiên, căn cứ vào Luật biển Việt Nam quy “Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải”. Nên đối với tàu quân sự phải được sự cho phép của Việt Nam mới được đi qua lãnh hải, và có thể áp dụng các quy định về chế độ pháp lý về biên giới quốc gia trong trường hợp này.

Dưới góc độ luật quốc tế đây là một quy định hợp lý được thừa nhận chung, đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản trong công pháp quốc tế, tuân thủ các quy định trong UNCLOS 1982.

 

Bài 7: Tàu đánh cá của quốc gia B đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

a/ Tàu đánh cá của quốc gia B có quyền này không?

Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền kinh tế được quy định cụ thể tại phần V của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), bao gồm các quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, các quyền tự do của các quốc gia khác.

Điều 56 UNCLOS quy định quốc gia ven biển (trường hợp này là Việt Nam) có quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Theo mục 3 Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12/5/1997 (sau đây gọi tắt là Tuyên bố ngày 12/5/1997): “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế;…” và tại điểm a khoản 1 Điều 16 Luật Biển Việt Nam 2012 nhấn mạnh: “Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện: a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển;…”. Như vậy, việc đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển (Việt Nam), mọi hành vi tùy tiện đánh bắt cá của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là vi phạm Công ước UNCLOS.

Tuy nhiên, tàu đánh cá nước B có thể  được quyền khai thác cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam nếu:

- B là quốc gia đang phát triển không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý hoặc các quốc gia đang phát triển khác trong cùng khu vực hoặc phân khu vực với Việt Nam;

- Nước B được Việt Nam cho phép hoạt động khai thác số dư khối lượng cá ở vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế và tàu thuyền đánh cá nước B được Việt Nam cấp giấy phép đánh bắt;

- Tàu đánh cá nước B thực hiện việc đánh bắt tuân thủ  theo pháp luật và các quy định của Việt Nam đưa ra.

(CSPL: khoản 2,3,4 Điều 62; Điều 69 và Điều 70 UNCLOS).

b/ Việt Nam có cho phép các quốc gia khác được khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam không? Cơ sở pháp lý?

Theo quy định tại khoản 2,3 Điều 62 UNCLOS, đối với các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển tự định ra tổng khối lượng có thể đánh bắt được, tự đánh giá khả năng thực tế của mình trong việc khai thác các tài nguyên sinh vật biển và ấn định số dư của khối lượng cho phép đánh bắt. Nếu số dư này tồn tại thì quốc gia ven biển được quyền cho phép các quốc gia khác, thông qua các điều ước hoặc những thoả thuận liên quan, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt này, có ưu tiên cho các quốc gia không có biển hoặc các quốc gia bất lợi về mặt địa lý.

Như vậy, Việt Nam được quyền cho phép các quốc gia khác khai thác số dư khối lượng cho phép đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của mình và trên thực tế Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 26/12/2000, trong đó Điều 3.1 quy định hai bên ký kết nhất trí thành lập vùng đánh cá chung trong vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước và theo tinh thần Điều 6 của Hiệp định này thì sản lượng được phép đánh bắt trong vùng đánh cá chung là sản lượng tổng được phép đánh bắt của cả hai nước cho nên nếu như trong trường hợp các tàu đánh cá của Việt Nam khai thác không hết khối lượng cho phép đánh bắt của mình thì tàu đánh cá của Trung Quốc được quyền khai thác số dư này nhưng vẫn phải trong phạm vi sản lượng chung được phép đánh bắt trong vùng đánh cá chung, mà vùng này được thành lập trong vùng đặc quyền kinh tế của 2 nước Việt Nam và Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam còn cho Lào là quốc gia đang phát triển không có biển khai thác số cá dư trong vùng đặc quyền kinh tế của mình theo thỏa thuận giữa hai bên.

c/ Các cơ quan có thẩm quyền nào của Việt Nam được thực hiện quyền truy đuổi? Kết quả của hành vi truy đuổi là gì?

Theo quy định của UNCLOS tại khoản 5 Điều 111 UNCLOS: “Quyền truy đuổi chỉ có thể được thực hiện bởi các tàu quân sự hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu hay phương tiện nay khác có mang các dấu hiệu ở bên ngoài chỉ rõ ràng rằng, các tàu hay  phương tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép làm nhiệm vụ này”. Dựa trên quy định của UNCLOS về các phương tiện được thực hiện quyền truy đuổi, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể các cơ quan trong nước có thẩm quyền thực hiện quyền truy đuổi tại khoản1 Điều 41 Luật Biển Việt Nam 2012, đó là: “Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài…” và theo Điều 47 Luật Biển Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển bao gồm: các lực lượng có thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các lực lượng tuần tra, kiểm soát chuyên ngành khác; và các lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vệ của cơ quan, tổ chức đóng ven biển các lực lượng khác cũng có trách nhiệm tham gia tuần tra, kiểm soát biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy động.

Kết quả của hành vi truy đuổi là:

- Nếu tàu bị truy đuổi dừng lại trong các vùng biển của quốc gia ven biển hoặc biển quốc tế thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn quy định tại Điều 51 Luật biển Việt Nam 2012: bắt, tạm giữ, tạm giam các cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật; tạm giữ tàu thuyền sử dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; có thể ra quyết định xử lý vi phạm tại chỗ tùy theo tích chất và mức độ vi phạm hoặc dẫn giải người, tàu thuyền vi phạm vào bờ hoặc yêu cầu cơ quan hữu quan của quốc gia mà tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý vi phạm (Điều 50 Luật biển Việt Nam 2012).

- Nếu tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền hay của một quốc gia khác thì quyền truy đuổi của quốc gia ven biển chấm dứt (khoản 3 Điều 111 UNCLOS, khoản 3 Điều 41 Luật biển Việt Nam 2012).

Những hành động này của cơ quan có thẩm quyền nhà nước là nhằm mục đích ngăn chặn các thiệt hại xấu xảy ra và trừng phạt kịp thời những đối tượng  có hành vi vi phạm pháp luật đối với quốc gia ven biển.

 

Bài 8:

Câu 1: Trung Quốc là quốc gia thành viên của Công ước của Liên Hiệp quốc về luật Biển 1982. Do đó, việc Trung Quốc mở rộng vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền phải phù hợp với mục tiêu và các nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc đã được nêu trong Hiến chương.

Theo như nhóm tìm hiểu: Đường chín đoạn là tên gọi dùng để chỉ đường quốc giới hải vực biển Đông mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chủ trương và đơn phương tuyên bố chủ quyền năm 2009 và gửi lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vào ngày 7 tháng 5 năm 2009. Đến tháng 6/2014, Trung Quốc chính thức đưa ra tuyên bố yêu sách 10 đoạn. Trung Quốc dựa vào các cơ sở như sau:

·     Thứ nhất, "Đường mười một đoạn" trong phụ lục "Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải"( xuất hiện công khai lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1948)  của "Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân Quốc" do Cục Phương vực Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc phát hành.

·     Thứ hai, Trung Quốc đã cho rằng mình xuất bản bản đồ có thể hiện "đường lưỡi bò" trong một thời gian dài nhưng không có bất cứ một quốc gia nào phản đối hay cuộc đàm phán song phương và đa phương nào về vùng biển mà Trung Quốc đã được in trên bản đồ.

Tuy nhiên, đường này xuất hiện do thời điểm đó Trung Hoa Dân quốc không có khả năng đo lường các hòn đảo để xác định mọi địa hình tạo đường phân định cho khu vực hành chính xung quanh vì thế họ vẽ ra đường chạy qua điểm giữa các hòn đảo và vùng đất lân bang để chỉ ra rằng các đảo nằm bên trong đường vẽ ra là lãnh thổ Trung Hoa. Đường này chạy qua điểm trung tuyến giữa các điểm nhô ra nhất của các hòn đảo và địa hình của đất liền xung quanh. Không hề có các tọa độ địa lý cụ thể được nêu ra và những bản đồ mỗi thời in đường chín đoạn này lại khác nhau. Đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành "đường chín đoạn". Thực tế lịch sử cho thấy, cả Chính phủ Trung Hoa Dân quốc lẫn Chính phủ Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ đưa ra lời tuyên bố hoặc giải thích chính thức gì về "đường lưỡi bò" đó. Năm 1993, chính phủ Đài Loan công bố Nam Hải Chính sách Cương lĩnh cho rằng Đường chín đoạn phân định ra vùng nước lịch sử. Nhưng đễn năm 2003 Tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển đã bác bỏ chính sách này.

Theo quan điểm của nhóm:

Về mặt lịch sử, đường lưỡi bò mà Trung Quốc gửi lên Liên Hiệp Quốc nhằm hợp pháp hóa vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền nằm bên trong đường lưỡi bò đã không có giá trị. Vì về mặt lịch sử, đường này được tuyên không mang danh của nước Công hòa nhân dân Trung Hoa mà thực chất chỉ là tuyên bố của một cá nhân. Do vậy, vùng biển nằm bên trong đường lưỡi bò mà Trung Quốc tuyên bố không có “quyền lịch sử” với các vùng biển ở Biển Đông.

Về mặt pháp lí, đường lưỡi bò không phù hợp với cách tính của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Trung Quốc là thành viên, cụ thể là không rõ ràng về vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền nằm trong đường lưỡi bò. Bản đồ này chứa một số lỗi như sau: Tỉ lệ xích thì đúng nhưng thước tỉ lệ thì vẽ sai: 1 km được thể hiện bằng 635 mét. Như vậy nếu dùng thước tỷ lệ này vào việc đo 200 hải lý (370 km) trên bản đồ, chỉ bằng 127 hải lý (235 km) trên thực địa. Hơn nữa, áp thước tỷ lệ này trên các bản đồ của Mỹ thì hóa ra 1 km chỉ có 630 m. Trong khi đó theo UNCLOS quy định: 1 hải lí thì bằng 1852m trên thực địa. Như vậy việc Trung Quốc đơn phương tuyên bố đường chính đoạn đã vi phạm:  Điều  8 – UNCLOS quy định về nội thủy, Điều 3 và  4 – UNCLOS quy định về lãnh hải, Điều 33 – UNCLOS quy định về vùng tiếp giáp lãnh hải, Điều 55 - UNCLOS, vùng đặc quyền kinh tế, Điều 76 - UNCLOS, thềm lục địa của một quốc gia ven biển.

 Khái niệm “vịnh lịch sử” hay “vùng nước lịch sử” mà ở đó một quốc gia thực hiện quyền lực thuộc chủ quyền của mình đã được luật pháp quốc tế chấp nhận trong một số hoàn cảnh hạn chế. Điều 10 của UNCLOS thừa nhận sự tồn tại của một vùng nước như vậy, và một số các vịnh biển mà không đáp ứng được các tiêu chuẩn chính thức của một “vịnh” theo Điều 10 đã được trao cho quy chế này theo thời gian. 

Khái niệm về yêu sách lịch sử được chấp nhận vào năm 1951 bởi Tòa án quốc tế (ICJ) khi phán xét về yêu sách của Na uy về vùng nước nằm tiếp liền bờ biển của nước này.

Theo đó thì một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập quán quốc tế và các phán quyết của tòa án phải thỏa mãn ít nhất là hai điều kiện sau: 1) Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách; 2) Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; 3) Quan điểm của các quốc gia khác với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này.

Bất cứ chính quyền nào yêu sách vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là vùng nước lịch sử thì quy chế pháp lý đối với vùng nước này như thế nào, nếu các vùng nước này được yêu sách như vùng nội thủy thì các chính quyền yêu sách đó phải chứng minh được là họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bao bọc trong “đường lưỡi bò” qua một thời gian tương đối giống như đã thực thi chủ quyền đối với các vùng nội thủy khác. Nếu các vùng nước này được yêu sách như lãnh hải thì quốc gia yêu sách phải chỉ ra được rằng họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bị bao bọc này trong một thời gian dài như họ đã thực thi chủ quyền đối với các vùng lãnh hải khác. Cũng tương tự như vậy nếu họ muốn yêu sách các vùng nước bị bao bọc như là vùng nước lịch sử.

a. Đối với yêu sách như các vùng nội thủy

Theo chế độ pháp lý của các vùng nội thủy, một quốc gia ven biển thực thi chủ quyền đầy đủ đối với vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, tàu nước ngoài không có quyền đi qua không gây hại trong vùng nội thủy của quốc gia ven biển, trừ khi được sự đồng ý của quốc gia đó.

Vậy vùng nước bị bao bọc bởi “đường lưỡi bò”có thể được coi là vùng nội thủy không? Câu trả lời đến ngay từ một học giả Đài Loan là không, bởi những lý do sau đây: thứ nhất, chính quyền Cộng hòa Trung Hoa chưa bao giờ yêu sách vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” như là vùng nội thủy. Thứ hai, tàu nước ngoài, trong đó có cả tàu chiến vẫn thực hiện quyền đi lại trên vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” này từ khi “đường lưỡi bò” này xuất hiện trên bản đồ do Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản năm 1948, và chính quyền Cộng Hòa Trung Hoa đã không có một hành động nào ngăn cản các tàu nước ngoài qua lại vùng này.

 b. Đối với yêu sách như “lãnh hải”.

Theo quy định tại Điều 3 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS) thì: “Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”. Mọi quốc gia có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh hải của mình. Tàu thuyền nước ngoài chỉ được hưởng quyền đi qua không gây hại cho trong vùng lãnh hải của các quốc gia ven biển, trừ khi có các điều khoản, điều ước chuyên môn khác. Đối với vùng trời phía trên lãnh hải, các máy bay nước ngoài được quyền bay qua không gây hại.

Máy bay nước ngoài đã bay qua vùng trời phía trên của vùng nước này từ năm 1948 khi bản đồ được xuất bản. Như đã trình bày ở trên, máy bay của nước ngoài không được phép bay qua không gây hại trên vùng trời phía trên của lãnh  hải quốc gia ven biển. Như vậy, đây không được xem là lãnh hải của Trung Quốc.

c. Đối với yêu sách như các vùng nước quần đảo.

 Khái niệm về các vùng nước quần đảo là một khái niệm mới trong luật biển quốc tế, được đưa ra trong Hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật biển lần III (UNCLOS III), theo đó, các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở thẳng của quần đảo là vùng nước quần đảo, nó không phải là nội thủy, cũng không phải là lãnh hải. Một quốc gia quần đảo có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng nước quần đảo của mình. Chủ quyền quốc gia “được mở rộng đến vùng trời phía trên của vùng nước quần đảo cũng như đến đáy của vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các nguồn tài nguyên ở đó”. Tàu nước ngoài được quyền đi qua không gây hại tại vùng nước quần đảo, tàu biển và máy bay nước ngoài được quyền có đường hàng hải, đường hàng không đi qua vùng nước quần đảo.

Do chế độ pháp lý của “các vùng nước quần đảo” được phát triển trong giai đoạn hội nghị lần thứ III của UNCLOS (từ năm 1973 – 1982) và bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò” xuất bản lần đầu năm 1948, nên khó có thể chứng minh được vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” đó có được quy chế pháp lý của các vùng nước quần đảo, Cộng Hòa Trung Hoa đã không thực thi chủ quyền và quyền tài phán của mình đối toàn bộ các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” này, tàu và máy bay nước ngoài vẫn tiếp tục được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không trong vùng nước nằm trong đường này, thay cho quyền đi qua không gây hại và quyền được qua lại các tuyến hàng hải và hàng không đã được ấn định của vùng nước quần đảo. Vì thế, có thể kết luận là toàn bộ các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” không thể được xem là các vùng nước quần đảo của Cộng hòa Trung Hoa.

Theo các tiêu chí để thỏa mãn một vùng nước được coi là vùng nước lịch sử, thì Trung Quốc cũng phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng nước trong đường lưỡi bò này một cách thật sự và liên tục trong một thời gian dài. Điều này thật không đơn giản, bởi vì:

Thời điểm mà Trung Quốc thực sự đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa là năm 1909, với hành động của Lý Chuẩn, tuy nhiên lúc này Hoàng Sa đã không còn là một lãnh thổ vô chủ nữa. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình từ ít nhất là năm 1816.

Đường lưỡi bò không phải là con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn, năm 1953, Trung Quốc đã phải bỏ đi hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính chất không liên tục của con đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích là để cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát.  “Đường lưỡi bò” không thể hiện được đặc tính đó, thêm nữa, vị trí của nó lại không được xác định tọa độ rõ ràng, vì thế khó mà biểu thị là một đường biên giới được.

Vấn đề thứ hai theo Yann Huei Song thì mặc dù “đường lưỡi bò” đã xuất hiện trên các bản đồ xuất bản ở Trung Hoa lục địa từ năm 1949, nhưng chưa bao giờ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa yêu sách chính thức các vùng nước nằm trong đường này như các vùng nước lịch sử. Đại diện của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã không tuyên bố như vậy trong Hội nghị Công ước Luật biển lần III.Theo luật pháp quốc tế, các hành vi mà quốc gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử, ít nhất các quốc gia phải có cơ hội được biết những gì đang diễn ra.

Như vậy, kể cả Cộng Hòa Trung Hoa lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đều chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò” đó.

Đặc biệt, Điều 1 Tuyên bố năm 1958 về lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã nhấn mạnh rằng:

“Chiều rộng lãnh hải nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều khoản này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm lục địa Trung Quốc và các đảo ven bờ của lục địa cũng như các đảo Đài Loan và xung quanh đó, quần đảo Penghu (Bành Hồ) và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc bị phân cách với đất liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả”.

Như vậy, Tuyên bố 1958 của Trung Quốc xác định rõ ràng các đảo bị tách biệt với lục địa bởi biển cả, chứ không phải là vùng nước lịch sử. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thủy của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó. Do vậy, Tuyên bố và các đạo luật của các nhà chức trách Trung Quốc, đặc biệt Tuyên bố năm 1958 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là không phù hợp với yêu sách lịch sử được phân định bởi “đường lưỡi bò”.

Tuyên bố về đường cơ sở của Trung Quốc ngày 15/5/1996 càng làm cho sự mập mờ này của họ bởi họ yêu sách một đường cơ sở nối cả Hoàng Sa nhưng lại không đề cập gì đến Trường Sa.

Hơn nữa, tại hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951, các quốc gia tham gia đã khước từ đề nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và thực tế tranh chấp về chủ quyền trên Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc hay tranh chấp chủ quyền đối với toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam, Malaysia, Philippines và Trung Quốc cho thấy không thể nói là “đường lưỡi bò” được các quốc gia khác công nhận. Như vậy, có thể nói là yêu sách này chưa bao giờ có được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế.

Từ những phân tích trên, nhóm khẳng định rằng, việc Trung Quốc tuyên bố đường lưỡi bò là không có cơ sở pháp lí và không có quyền lịch sử với các vùng biển ở Biển Đông theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Trung Quốc là thành viên.

Câu 2:

Các quốc gia bị ảnh hưởng bởi tuyên bố "Đường lưỡi bò" của Trung Quốc là Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei.

 

 

 

 

Bởi vì:

 

Đường lưỡi bò của Trung Quốc lấn lên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia này.

Theo năm tháng, "đường lưỡi bò” dần dần bành trướng đến khi nó bao trùm phần lớn Biển Đông, vào cách bờ biển của các nước khác dưới 100 hải lý, mà không hề có một lập luận nào dựa trên luật pháp hay tập quán quốc tế.

 

Bài 9:

1.   Philippines kiện Trung quốc về vụ việc gì?

Với tư cách là một quốc gia thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), ngày 22/1/2013, Philippines đã đệ đơn kiện về việc Trung Quốc đã giải thích và áp dụng sai UNCLOS theo Điều 279, Điều 283, Điều 284 lên Tòa Trọng tài Thường trực The Haye (PCA).

Cụ thể, Philippines khởi kiện Trung Quốc 15 nội dung, tập trung vào 3 nhóm vấn đề:

a.   Yêu sách đường chín đoạn Trung Quốc đưa ra dựa trên "Quyền lịch sử" không phù hợp với UNCLOS cho nên nó vô giá trị.

b.   Philippines yêu cầu PCA xác định xem, theo UNCLOS, thì một số thực thể địa lý, mà cả Philippines lẫn Trung Quốc yêu sách, là đảo, đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm hay bãi ngầm nằm hoàn toàn dưới mực nước biển, trên cơ sở đó để xác định hiệu lực pháp lý của các thực thể này đến đâu (có hay không có lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý).

c.    Philippines yêu cầu PCA tuyên bố Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS khi cản trở Philippines thực thi các quyền chủ quyền, quyền tài phán và quyền tự do của Philippines theo UNCLOS cũng như việc Trung Quốc gây tổn hại môi trường biển trong các hoạt động bồi lấp xây dựng đảo, đánh bắt cá mà nước này tiến hành.

Ngày 29/10/2015, PCA - Tòa Trọng tài Thường trực The Haye, ra thông cáo báo chí về vụ kiện giữa Cộng hòa Philippines với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; trong đó đã khẳng định rằng PCA có thẩm quyền thụ lý, xét xử vụ kiện này theo đúng quy định của UNCLOS và rằng, cả Trung Quốc và Philippines đều là thành viên ràng buộc của UNCLOS có trách nhiệm và nghĩa vụ tuân thủ mọi điều khoản của UNCLOS. Việc Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện không làm mất đi thẩm quyền ra phán quyết của PCA.

PCA đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc rằng Philippines chủ yếu khởi kiện các nội dung liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và phân định biên giới biển giữa 2 nước, do đó nó vượt qua thẩm quyền của PCA. Ngược lại Tòa khẳng định, bản chất vụ kiện của Philippines phản ánh tranh chấp giữa 2 nước liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS.

Đồng thời, PCA cũng đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc cho rằng Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) ký giữa Trung Quốc với ASEAN năm 2002 là thỏa thuận để giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua thương lượng. PCA phán quyết rằng DOC chỉ là một thỏa thuận chính trị mà không ràng buộc pháp lý, do đó không liên quan đến các quy định trong UNCLOS về việc ưu tiên giải quyết tranh chấp thông qua bất kỳ phương tiện nào mà hai bên đồng ý.

2.   Phụ lục VII của Công ước về Luật Biển 1982 đề cập đến những nội dung gì?

Phụ lục VII của CULB 1982  đề cập về thẩm quyền, thủ tục và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài gồm các nội dung như sau:

Thứ 1, thẩm quyền thành lập trọng tài quy định tại Điều 1 Phụ lục VII CULB1982; Thứ 2,  Theo quy định của Điều 3, Phụ lục VII về trọng tài, trọng tài gồm 5 thành viên, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác;

Thứ 3, chức năng của trọng tài: Theo quy định tại Điều 4, Phụ lục VII của UNCLOS, trọng tài thi hành các chức năng theo đúng Phụ lục VII và các quy định khác của UNCLOS, Điều 6 về những nghĩa vụ của các bên;

 Thứ 4, về xét xử vắng mặt của một bên được quy định tại Điều 9 Phụ lục VII;

Thứ 5: giải thích và thi hành bản án.

Toà trọng tài được thành lập và hoạt động theo đúng Phụ lục VII của Công ước luật biển, là cơ quan tài phán quốc tế.

Toà trọng tài thực hiện các chức năng của mình theo đúng phụ lục VII và các quy định khác của Công ước trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới luật biển. Bản án của Toà trọng tài có tính tối hậu và không được kháng cao, trừ khi các bên trong vụ tranh chấp đã có thoả thuận trước về một thủ tục kháng cáo. Tất cả các bên trong vụ tranh chấp khi được Toà trọng tài giải quyết vụ việc bằng bản án thì đều phải tuân theo.

Phụ lục VII

"ĐIỀU 1. Việc khởi tố

Với điều kiện phải tuân thủ Phần XV, bất kỳ bên nào trong một vụ tranh chấp đều có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài đã trù định trong Phụ lục này bằng một thông báo viết gửi tới bên kia hoặc hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp. Thông báo có kèm theo bản trình bày các yêu sách và các lý do làm căn cứ cho các yêu sách đó.

ĐIỀU 2. Danh sách các trọng tài

1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập ra và giữ một bản danh sách các trọng tài. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định bốn trọng tài có kinh nghiệm về những vấn đề biển và nổi tiếng nhất về sự công bằng, về năng lực và liêm khiết. Tên của những người được chỉ định như vậy được ghi rõ trên một bản danh sách.

2. Vào một thời điểm nào đó, nếu số lượng trọng tài được một quốc gia thành viên chỉ định và có trong bản danh sách dưới bốn người thì quốc gia này có quyền tiến hành việc chỉ định bổ sung mà mình có quyền.

3. Tên của một trọng tài được ghi ở trên bản danh sách cho đến khi quốc gia thành viên đã chỉ định người trọng tài này rút người đó khỏi danh sách; dĩ nhiên, người trọng tài này phải tiếp tục làm nhiệm vụ trong mọi Toà trọng tài mà họ được cử cho đến khi thủ tục tiến hành trước toà này kết thúc.

ĐIỀU 3. Thành lập Toà trọng tài

Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục này, trừ khi các bên liên quan có thoả thuận khác, Toà trọng tài được lập ra, như sau:

a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà trọng tài gồm có năm thành viên;

b) Bên nguyên cử một thành viên mà mình tuỳ ý lựa chọn ở trên bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này và người đó có thể là công dân của mình. Tên của người đó được ghi trong bản thông báo nói trong Điều 1 của Phụ lục này;

c) Bên bị trong vụ tranh chấp cử trong thời hạn 30 ngày, tính từ khi nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này một thành viên mà mình tuỳ ý lựa chọn trên bản danh sách, và người đó có thể là công dân của mình. Nếu họ không cử người trong thời hạn nói trên, thì bên nguyên có thể yêu cầu tiến hành việc cử thành viên đó theo đúng điểm c trong hai tuần lễ sau khi hết thời hạn này;

d) Ba thành viên khác được các bên thoả thuận cử ra. Họ được các bên tuỳ ý chọn trên bản danh sách và là công dân của các quốc gia thứ ba, trừ khi các bên có thoả thuận khác. Các bên cử Chánh toà của Toà trọng tài trong số ba thành viên đó. Nêu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, các bên hữu quan không thể thoả thuận về việc chỉ định một hay nhiều thành viên của Toà mà họ phải cử theo thoả thuận chung hay là về việc cử Chánh toà, thì theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, cần tiến hành cử 1 người hay những người đó theo đúng điểm e Yêu cầu đó phải được đưa lên trong hai tuần sau khi hết hạn 60 ngày này;

e) Trừ khi các bên hữu quan thoả thuận giao cho một người hoặc cho một quốc gia thứ ba do họ lựa chọn tiến hành các việc cử người cần thiết theo điểm c và d, Chánh án của Toà án quốc tế về luật biển cần tiến hành việc hành. Nếu Chánh án bận hoặc là công dân của một trong các bên trong vụ tranh chấp, thì việc cử người giao cho thành viên thâm niên nhất của Toà án quốc tế về luật biển sẵn sàng làm việc này và không phải là công dân của một trong các bên hữu quan. Việc cử người tiến hành bằng cách lựa chọn trên bản danh cách nói ở Điều 2 của Phụ lục này trong một thời hạn là 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu và có tham kháo ý kiến của các bên. Các thành viên được cử như thế cần phải thuộc các quốc tịch khác nhau, không được làm việc cho một bên nào trong vụ tranh chấp; họ không trú ngụ thường xuyên ở trên lãnh thổ của một trong các bên hữu quan đó và không phải là công dân của một bên nào;

f) Mọi ghế bị trống đều được cử người thay thế theo các quy định cho lần bổ nhiệm đầu tiên ;

g) Các bên cùng một phía cùng nhau cử một thành viên của Toà qua thoả thuận chung. Khi có nhiều bên đối lập nhau hay trong trường hợp không thống nhất về điểm liệu các bên có đứng vào cùng một phía không, thì mỗi bên trong số họ cử một thành viên của Toà. Số lượng thành viên của Toà do các bên cử riêng rẽ bao giờ cũng phải ít hơn một người so với số lượng các thành viên của Toà được các bên hữu quan cùng cử ;

h) Các điểm a đến f được áp dụng đến hết mức có thể vào các vụ tranh chấp xảy ra có quá hai bên hữu quan trở lên.

ĐIỀU 4. Các chức năng của Toà trọng tài

Một toà trọng tài được thành lập theo Điều 3 của Phụ lục này thi hành các chức năng của mình theo đúng Phụ lục này và quy định khác của Công ước.

ĐIỀU 5. Thủ tục

Trừ khi các bên có thoả thuận khác, Toà trọng tài tự quy định thủ tục của mình bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và trình bày căn cứ của mình.

ĐIỀU 6. Những nghĩa vụ của các bên

Các bên tham gia tranh chấp tạo điều kiện dễ dàng cho Toà trọng tài thực hiện nhiệm vụ của mình và, đặc biệt là, theo đúng pháp luật của mình và bằng tất cả các phương tiện thuộc quyền sử dụng của mình, cần phải:

a) Cung cấp cho Toà mọi tài liệu, các điều kiện dễ dàng và các thông tin thích hợp; và b) Cho Toà, khi điều đó là cần thiết, có khả năng dẫn ra và nghe người làm chứng hoặc các chuyên gia và đến tại chỗ.

ĐIỀU 7. Lệ phí

Trừ khi Toà trọng tài có quyết định khác vì có những hoàn cảnh đặc biệt của vụ việc, lệ phí của Toà, kể ca thù lao cho các thành viên của Toà, phải do các bên trong vụ tranh chấp chịu ngang nhau.

ĐIỀU 8. Đa số cần thiết phải thông qua các bản án

Các quyết định của Toà trọng tài được thông qua theo đa số các thành viên của Toà. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của dưới một nửa số thành viên không cản trở Toà ra quyết định. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, lá phiếu của Chánh toà là lá phiếu quyết định.

ĐIỀU 9. Vắng mặt

Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà tiếp tục trình tự tố tụng và phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán quyết, Toà trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những Toà có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc chắn rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế pháp lý.

ĐIỀU 10. Bản án

Bản án của Toà trọng tài được giới hạn ở nội dung của vụ tranh chấp và phải nêu căn cứ. Bản án nêu tên của các thành viên của Toà trọng tài đã tham gia xét xử và thời gian ra bản án. Bất kỳ thành viên nào của Toà cũng có thể đính thêm vào bản án trình bày ý kiến riêng hoặc bất đồng của mình.

ĐIỀU 11. Tính chất tối hậu của bản án

Bản án có tính chất tối hậu và không được kháng cáo, trừ khi các bên trong vụ tranh chấp phải tuân theo bản án này.

ĐIỀU 12. Giải thích hoặc thi hành bản án

1. Bất kỳ tranh cãi nào có thể xảy ra giữa các bên trong vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay cách thi hành bản án, đều có thể được bên này hoặc bên kia đưa ra để Toà trọng tài đã tuyên án quyết định. Vì mục đích ấy, các ghế bị trống đều được cử người thay theo phương pháp được trù định cho việc bổ nhiệm ban đầu các thành viên của Toà.

2. Nếu tất cả các bên trong vụ tranh chấp thoả thuận, thì bất kỳ tranh cãi nào thuộc loại này đều có thể được đệ trình lên một Toà khác theo đúng Điều 287.

ĐIỀU 13. Áp dụng đối với các thực thể không phải là các quốc gia thành viên

Phụ lục này được áp dụng mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho mọi vụ tranh chấp nào liên quan đến các thực thể không phải là quốc gia thành viên."

3.   Phán quyết của Tòa đề cập tới nội dung gì?

Chiều ngày 12/7/2016 (theo Thông cáo báo chí của Tòa Trọng tài), Phán quyết của Hội đồng Trọng tài đã chính thức được công bố. Nội dung của Phán quyết đã đề cập đầy đủ 7 nội dung mà Tòa Trọng tài đã lựa chọn thuộc thẩm quyền xét xử của mình trong số 15 điểm của đơn khởi kiện. Nội dung Phán quyết của Tòa  chỉ  tập trung phán xét về việc giải thích và áp dụng sai các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển, không liên quan gì đến tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp về việc phân định các vùng chồng lấn; cụ thể là:

a.   Bác bỏ “Quyền lịch sử” đối với tài nguyên trong đường 9 đoạn;

Toà Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung thực chất, Toà kết luận rằng Công ước quy định một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng biển, và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước Công ước liên quan đến tài nguyên đã được xem xét, nhưng chúng không được thông qua và quy định tại Công ước.

Theo đó, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước.

Toà cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây.

Vì vậy, Toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.

b.   Khẳng định các cấu trúc (thực thể địa lý) thuộc Trường Sa không có hiệu lực để có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý;

Tiếp theo, Toà Trọng tài xem xét đến quyền hưởng các vùng biển và quy chế của các cấu trúc. Trước tiên, Toà tiến hành đánh giá liệu một số bãi do Trung Quốc yêu sách có nổi khi thuỷ triều lên đỉnh hay không.

Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi các cấu trúc chìm khi thuỷ triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy.

Toà nhận thấy rằng các bãi này đã bị làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng và Toà cũng nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc.

Sau đó, Toà tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không.

Theo Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.

Toà kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác.

Toà cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc.

Toà cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản.

Toà kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác.

Theo đó, Toà kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng.

c.   Toà cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.

Các hoạt động của Trung Quốc ngăn cản Philippines thực hiện các quyền của mình trong vùng đặc quyền kinh tế, kể cả vùng biên xung quanh bãi cạn Scaborough là vi phạm UNCLOS 1982;

d.   Các hoạt động khai thác, xây đảo nhân tạo của Trung Quốc đã gây hại cho môi trường biển;

Gây hại cho môi trường biển: Toà xem xét ảnh hưởng với môi trường biển của các hoạt động bồi đắp và xây dựng nhân tạo trên 7 cấu trúc của Quần đảo Trường Sa gần đây của Trung Quốc, và nhận thấy rằng Trung Quốc đã gây hại nghiêm trọng với môi trường của các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe doạ và bị huỷ diệt.

Toà cũng cho rằng nhà chức trách Trung Quốc đã nhận thức được việc ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt các loài rùa biển, san hô và trai khổng lồ quý hiếm trên diện rộng ở Biển Đông (bằng các biện pháp gây ra tổn hại nghiêm trọng với môi trường rặng san hô) và đã không thực hiện các nghĩa vụ của nước này trong việc ngăn chặn và chấm dứt các hoạt động này.

Toà nhận thấy rằng việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi-líp-pin, và phá huỷ các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa các Bên.

e.   Tất cả những hoạt động đó của Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm tranh chấp.

Làm trầm trọng thêm tranh chấp: Cuối cùng, Toà xem xét liệu các hoạt động của Trung Quốc kể từ khi Toà bắt đầu xem xét vụ việc có làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các bên hay không.

Toà nhận thấy rằng Toà thiếu thẩm quyền để xem xét tác động của vụ đối đầu giữa tàu hải quân của Phi-líp-pin và tàu hải quân và chấp pháp của Trung Quốc ở Bãi cạn Second Thomas, cho rằng tranh chấp này liên quan đến các hoạt động quân sự và do vậy, nằm ngoài cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc.

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài tập tình huống môn Luật Biển - có đáp án

Tác giả
Tạp chí
Năm xuất bản 0
Tham khảo

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ