Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đi đôi với quá trình hội nhập phát triển kinh tế là yêu cầu xây dựng một xã hội có những thiết chế pháp luật chặt chẽ và cụ thể, trong đó quyền con người phải được tôn trọng và bảo vệ. Chế định người làm chứng được quy định trong BLTTHS năm 2003 là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ người làm chứng - chủ thể góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, sự hoàn thiện chế định pháp luật người làm chứng và sự bảo đảm của nhà nước về địa vị pháp lý của người làm chứng sẽ có ý nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ quyền lợi của con người, quyền lợi của toàn xã hội nói chung cũng như quyền lợi của người làm chứng nói riêng; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật, của Nhà nước và đồng thời góp phần quan trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa vững mạnh. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng đã quy định tích cực theo hướng nhân đạo hóa và ngày càng hoàn thiện hơn chế định này.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định theo hướng ngày càng hoàn thiện các chế định về người làm chứng, mở rộng quyền của họ và những biện pháp bảo đảm tố tụng cho các quyền đó. Tuy nhiên, việc quy định về địa vị pháp lý của người làm chứng trong BLTTHS năm 2003 vẫn chưa tạo cơ sở pháp lý phù hợp để khuyến khích người làm chứng tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân của mình, chưa thực sự bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của người làm chứng. Trong khi đó, hoạt động của tội phạm ngày càng nguy hiểm và táo tợn hơn trong việc trả thù, đe dọa, hành hung người làm chứng. Quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý người làm chứng còn nhiều những bất cập trong nội dung cũng như cơ chế  giải quyết. Việc nghiên cứu chế định người làm chứng trong tố tụng hình sự để có cái nhìn sâu hơn, đầy đủ hơn và có những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về người làm chứng là hoàn toàn cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Có nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình khoa học có cấp độ khác nhau quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của người làm chứng. Trong đó có một số bài viết như: “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm bảo vệ người làm chứng khi tham gia tố tụng” của Th.s Nguyễn Hải Ninh (Trường Đại học Luật Hà Nội), Tham luận tại Hội thảo quyền con người tổ chức tháng 12 năm 2010; “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự” của Th.s Đinh Thế Hưng – Viện Nhà nước và Pháp luật, Tham luận tại Hội thảo: Các điều kiện đảm bảo quyền con người ở Việt Nam do Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức ngày 27/8/2010; Đề tài khoa học cấp trường năm 2010 “Cơ sở pháp lý bảo vệ người làm chứng” của tác giả Phạm Chung (Đại học Đà Lạt); “Bảo vệ người làm chứng và miễn trừ quyền làm chứng trong tố tụng hình sự” của PGS. TS Nguyễn Thái Phúc – Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (Tạp chí Kiểm sát số 18 & 20 năm 2008); “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự” - PGS,TS. Trần Đình Nhã – Phó chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc Hội (http://luathinhsu.wordpress.com/2010 /08/26/hoan-thien-co-so-phap-ly-ve-bao-ve-nguoi-to-giac-nguoi-lam-chung-nguoi-bi-hai-trong-vu-an-hinh-su/); “Một số vấn đề cần chú ý về tâm lý xã hội của người làm chứng” của tác giả Đinh Tuấn Anh (Học viện Cảnh sát nhân dân) đăng trên tạp chí Kiểm sát số 7 (04/2008); “Một số vấn đề trong việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án hình sự” của Thạc sỹ Trần Đại Thắng (Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC) đăng trên tạp chí kiểm sát số 24 (2005); “Cần quy định rõ, đầy đủ tư cách pháp lý quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng hình sự” của tác giả Đinh Văn Lý đăng trên tạp chí Kiểm sát số 17/2009; “Bảo đảm quyền của người làm chứng trong BLTTHS” của Luật sư, TS. Phan Thị Hương Thúy đăng trên http://luathinhsu.wordpress.com/2010/10/07/bao-dam-quyen-cua-nguoi-lam-chung-trong-bltths/...

Các bài viết này đã đề cập đến một số khía cạnh xung quanh người làm chứng, giúp người đọc thấy được vai trò quan trọng của người làm chứng, các đặc điểm về tâm lý xã hội khi tham gia làm chứng, đồng thời cũng chỉ ra được những bất cập cần phải giải quyết và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của khóa luận

Khóa luận làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quy định về địa vị pháp lý người làm chứng, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật về vấn đề này, từ đó tìm ra những nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế định người làm chứng trong TTHS.

Để đạt được mục đích trên khóa luận đặt ra những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Phân tích quy định về địa vị pháp lý của người làm chứng trên cơ sở làm rõ yếu tố tâm lý người làm chứng, vai trò của họ trong giải quyết vụ án hình sự.

- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật trong việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người làm chứng.

- Tìm ra những nguyên nhân của thực trạng và đưa ra một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người làm chứng

Về phạm vi nghiên cứu: khóa luận tập trung phân tích quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền và nghĩa vụ người làm chứng trên cơ sở lý luận và thực tế thực hiện những quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền của người làm chứng.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền con người, đề tài được nghiên cứu chủ yếu bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn và một số phương pháp luận khác.

5. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm ba chương:

Chương I. Một số vấn đề chung về người làm chứng và địa vị pháp lý của người làm chứng trong tố tụng hình sự

Chương II. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người làm chứng

Chương III. Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng và các giải pháp nâng cao hiệu quả

CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Người làm chứng trong tố tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam

Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Bộ Luật Hồng Đức là Bộ luật đầu tiên quy định về người làm chứng "Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra ngày thường đôi bên kiện tụng là người thân tình hay có thù oán, thì không cho phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra làm chứng, thì khép vào tội không nói đúng sự thực. Hình quan, ngục quan biết mà dung túng việc đó đều bị tội" (Điều 714).

Trong Bộ luật hình sự tố tụng áp dụng tại Bắc kỳ dưới thời Pháp thuộc, người làm chứng được quy định tại các điều 20 - 30. Điều 20 Bộ luật quy định: "Phàm người chứng đã liệt danh trong đơn khống và các người mà quan thẩm phán liệu nghĩ đến chất vấn trong khi thẩm cứu, thì đều phải bị đòi gọi đến Tòa án để chất vấn". Ngoài việc quy định chủ thể nào là người làm chứng, Bộ luật còn quy định về nghĩa vụ của người làm chứng tại Điều 22: "Phàm người chứng đã bị chiếu lệ đòi gọi, không có cớ gì hợp lẽ mà tự ý không đến hầu trước Tòa sơ cấp nghĩ xử việc vi cảnh, hoặc trước Tòa án tỉnh, hoặc trước Tòa đệ tam cấp hoăc trước quan thẩm cứu, thì có thể bị ép bắt phải đến hầu, và vì cớ không đến hầu phải bị xử phạt bạc từ 1 đồng đến 5 đồng, và phạt giam từ 1 ngày đến 5 ngày, hoặc hai thứ chỉ phải chịu một”.

Trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời, trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có những văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao như công văn số 98-NCPL ngày 02/03/1974 của Tòa án nhân dân tối cao gửi cho các Tòa án địa phương đề cập việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng. Công văn đã nêu lên sự cần thiết phải xác minh, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng: Lời khai của nhân chứng trực tiếp hay gián tiếp đều phải được xác minh có đúng sự thật không, vì những lý do:

a) Người làm chứng tuy khách quan nhưng vì trí nhớ hoặc mắt có thể không tốt, nên thuật lại có thể không hoàn toàn đúng diễn biến của sự việc.

b) Việc xảy ra đã lâu nên không nhớ chi tiết, thuật lại có thiếu sót.

c) Ngại phiền phức hoặc thù oán mà không khai hết sự việc mà mình đã biết.

d) Vì cảm tình hoặc có mâu thuẫn với một bên trong vụ án mà khai thêm hoặc bớt, thiếu chính xác.

đ) Có nhân chứng, vì nhớ không kỹ mà khai thêm, bớt, suy diễn theo chủ quan của mình.

e) Vì bị đe dọa hoặc bị mua chuộc mà khai sai sự thật.

g) Đã khai không đúng, nhưng sau vẫn khai như trước, vì sợ khai khác thì bị đánh giá là người không trung thực.

Thông thường lời khai của những người đúng đắn, ngay thẳng, không có thân thuộc, bạn bè, không có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại hoặc không có quyền lợi gì liên quan đến vụ án thì có nhiều khả năng chính xác. Tuy nhiên, không thể khẳng định trước là lời khai của nhân chứng nào là đáng tin hơn nhân chứng nào, dù là nhân chứng trực tiếp, nếu lời khai ấy chưa được xác minh, thẩm tra lại.

Trong Công văn này, Tòa án nhân dân tối cao còn rút ra một vấn đề cần chú ý khi kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng:

1. Xem nhân chứng thuộc loại trực tiếp hay gián tiếp.

2. Sự việc họ khai có rõ ràng hay chỉ là phỏng đoán, suy diễn.

3. Trạng thái về tinh thần, tuổi của người làm chứng.

4. Cương vị, điều kiện công tác, nơi ở của họ có thể cho phép họ biết rõ sự việc như họ đã khai không?

5. Họ có quan hệ thân thuộc, bạn bè hoặc có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại không? Quyền lợi của họ có liên quan đến vụ án không?

Như vậy, vấn đề người làm chứng, cũng như việc quy định về quyền, nghĩa vụ của họ được đề cập từ rất sớm trong lịch sử lập pháp Việt Nam. Pháp luật hầu hết các quốc gia đều có những quy định về người làm chứng vì lời khai của người làm chứng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, tăng niềm tin của nhân dân vào pháp luật. Với những ý nghĩa trên BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận người làm chứng là người tham gia tố tụng hình sự tại Điều 55, có sự bổ sung, kế thừa các quy định của BLTTHS năm 1988.

Điều 55 BLTTHS năm 2003 quy định: “Người nào biết được các tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng; 2. Những người sau đây không được làm chứng: a) người bào chữa của bị can, bị cáo; b) người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn...”. Như vậy theo quy định của pháp luật có thể hiểu như sau về người làm chứng:

+ Người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án. Nhận thức của người làm chứng về các tình tiết của vụ án có thể trực tiếp hoặc gián tiếp (trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay được người khác kể lại). Những tình tiết mà người làm chứng biết được có thể liên quan đến đối tượng chứng minh được quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003 hoặc các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án (có ý nghĩa chứng minh). Việc họ biết được các tình tiết của vụ án là một thực tế khách quan, và vì vậy họ có thể được triệu tập đến để khai báo về thực tế khách quan đó với tư cách người làm chứng cung cấp chứng cứ cho người có trách nhiệm chứng minh. Việc một người biết về các tình tiết liên quan đến vụ án hình sự là một thực tế khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan hay người tiến hành tố tụng.

+ Người tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng khi họ không phải người bào chữa của bị can, bị cáo. Theo quy định tại Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Người bào chữa của bị can, bị cáo có thể biết được các tình tiết của vụ án từ nhiều nguồn và trong những khoảng thời gian khác nhau: có thể biết trước khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa từ những thông tin không phải do bị can, bị cáo cung cấp, có thể biết được các tình tiết đó do có mặt ở nơi xảy ra tội phạm, do quen biết bị can, bị cáo hoặc do được người khác kể lại... Cũng có thể người đó biết được các tình tiết vụ án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa do được đọc hồ sơ vụ án, do tiếp xúc với bị can, bị cáo. Người bào chữa tham gia tố tụng để thực hiện chức năng gỡ tội nên chỉ đưa ra các chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo. Họ không thể làm chứng vì nghĩa vụ của người làm chứng là khai báo trung thực những gì họ biết về vụ án, nghĩa vụ này mâu thuẫn với nghĩa vụ của người bào chữa. Vì vậy, điểm b khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định nếu một người nào đó đã tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa thì không được làm chứng trong vụ án đó.

+ Người đó phải có khả năng nhận thức được các tình tiết của vụ án và có khả năng khai báo đúng đắn. Điểm b khoản 2 Điều 55 BLTTHS năm 2003 quy định những người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn thì không được làm chứng. Theo quy định của pháp luật thì người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan tới vụ án, những người có nhược điểm về thể chất biết được các tình tiết theo cách riêng của họ. Người điếc không nghe thấy được nhưng có thể nhìn thấy, người mù không thể nhìn thấy được nhưng có thể nghe thấy. Vì vậy, nếu vào thời điểm nhận thức hoặc khai báo sự việc mà do có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận thức hoặc khai báo đúng đắn thì không được làm chứng. Nếu các nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và khai báo thì có thể tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng.

+ Người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án chỉ có thể trở thành người làm chứng khi được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Trong thực tiễn điều tra có nhiều người biết tình tiết của vụ án đang điều tra nhưng không trở thành người làm chứng bởi luật quy định những trường hợp này không được làm chứng (người bào chữa của bị can, bị cáo; người có nhược điểm tâm thần, thể chất mà không có khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn – khoản 2 Điều 55 BLTTHS năm 2003), hoặc do cơ quan có thẩm quyền xét thấy không cần thiết phải triệu tập họ để lấy lời khai với tư cách người làm chứng trong vụ án. Trường hợp có nhiều người biết các thông tin liên quan đến vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có sự lựa chọn. Những người biết được nhiều tin tức quan trọng, biết được các tình tiết một cách sâu sắc, chính xác, đầy đủ; những người có khả năng mô tả lại một cách tốt nhất những hiểu biết của họ mà cơ quan điều tra đang cần; những người có thiện chí, có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ người làm chứng thường được các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn. Việc lựa chọn triệu tập ai là người làm chứng sẽ làm giảm được khối lượng công việc, tránh tình trạng lan man trong thu thập chứng cứ.

Từ những phân tích trên có thể hiểu về người làm chứng như sau: Người làm chứng là người biết được tình tiết của vụ án đang được điều tra, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự việc cần xác minh trong vụ án.

1.1.2. Đặc điểm về nhận thức và tâm lý của người làm chứng trong tố tụng hình sự

Trong thực tiến điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có thể nhận thấy đại đa số quần chúng nhân dân luôn sẵn sàng cộng tác với các cơ quan tiến hành tố tụng, cung cấp những thông tin có ích cho việc giải quyết vụ án. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người lẩn tránh việc ra làm chứng hoặc làm chứng với thái độ miễn cưỡng, khai báo không đầy đủ thậm chí khai báo gian dối gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu đều xuất phát từ tâm lý xã hội của người làm chứng. Những đặc điểm về nhận thức và tâm lý khác biệt của người làm chứng trong tố tụng hình sự có thể lý giải phần nào tình trạng người làm chứng không tích cực hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Nhiều người làm chứng chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ pháp lý của mình.

Theo quy định của pháp luật việc một người ra làm chứng không chỉ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác mà còn là việc thực hiện nghĩa vụ công dân đã được pháp luật quy định ( Điều 79 Hiến pháp năm 1992; Điều 4 BLHS năm 1999; Điều 25, Điều 55 BLTTHS năm 2003). Thậm chí việc từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 55 BLTTHS năm 2003...).

Do trình độ hiểu biết pháp luật của đại đa số người dân còn hạn chế nên không phải ai cũng nhận thức được nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Nhiều người cho rằng trách nhiệm điều tra làm rõ tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật, không phải trách nhiệm của họ. Không vi phạm pháp luật, và thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước (nộp thuế, các khoản phí, lệ phí) đối với một số người đã là thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân. Còn trách nhiệm điều tra tội phạm là công việc của các cơ quan tiến hành tố tụng bởi Nhà nước đã giao cho các cơ quan đó làm nhiệm vụ này. Họ còn nghĩ mình không phải là người duy nhất biết được các tình tiết liên quan tới vụ án, ngoài họ ra còn nhiều người khác biết. Vì vậy, nếu họ không ra làm chứng thì sẽ có người khác làm chứng thay. Từ đó dẫn đến thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin mà họ biết với các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Người làm chứng có tâm lý sợ phiền hà, không muốn mất thời gian ảnh hưởng tới công việc và sinh hoạt của mình, tốn kém tiền của hoặc bị phía đối tượng trong vụ án mua chuộc. Ra làm chứng cũng có nghĩa là tham gia vào hoạt động tố tụng cho nên người làm chứng có nghĩa vụ pháp lý trong suốt thời gian điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Người làm chứng có thể được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời khai, nhận diện, đối chất vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật... Điều đó ảnh hưởng đến thời gian làm việc, học tập, sinh hoạt, ảnh hưởng đến thu nhập kinh tế thậm chí phải mất chi phí cho việc làm chứng (chi phí đi lại, ăn ở). Theo quy định của pháp luật người làm chứng được thanh toán các khoản chi phí trên nhưng thực tế các khoản tiền được thanh toán đó thường không theo kịp giá cả thị trường. Hơn nữa nhiều người làm chứng có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế nên thường viện lý do thoái thác để không đến làm chứng hoặc làm chứng không đúng hẹn hay chỉ khai báo qua loa cho xong việc, tâm lý không muốn “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” vẫn còn tồn tại. Nhiều trường hợp người làm chứng bị mua chuộc từ phía đối tượng hoặc người nhà của họ nên đã khai báo theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo.

- Người làm chứng sợ bị xử lý trước pháp luật do bản thân họ có liên quan tới sự việc tội phạm ở mức độ nhất định hoặc sợ bị phát hiện những hành vi xấu xa của mình, họ sợ bị liên đới chịu trách nhiệm với kẻ phạm tội. Trường hợp người làm chứng không có hành vi liên quan tới sự việc phạm tội nhưng tình cờ được chứng kiến hành vi phạm tội trong khi bản thân họ đang làm những chuyện xấu xa, vô đạo đức do đó họ chỉ muốn tránh xa các cơ quan bảo vệ pháp luật để không bị lâm vào tình cảnh rắc rối. Đó còn chưa kể tới những người đã và đang có hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội nhưng chưa bị phát hiện, họ rất sợ phải tiếp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật vì theo tâm lý “có tật giật mình”. Trong thâm tâm họ luôn sợ rằng “cái sảy nảy cái ung” nên tốt nhất không nên ra làm chứng để bảo vệ an toàn cho bản thân mình.

- Người làm chứng sợ ảnh hưởng không tốt đến uy tín, danh dự của bản thân hoặc đến mối quan hệ với các đối tượng trong vụ án. Quan niệm “dĩ hòa vi quý”, coi trọng tình cảm của người Phương Đông khiến cho nhiều người không muốn làm mất lòng ai, không muốn người khác xì xào, bàn tán không có lợi cho mình nhất là những người có địa vị nhất định trong xã hội. Khi ra làm chứng trước pháp luật họ sợ bị mọi người xung quanh hiểu lầm mình có dính líu gì đó đến vụ án nên mới bị cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Mặt khác trong xã hội vẫn còn nhiều người thành kiến với việc kiện tụng, coi việc tố cáo nhau là xấu dù họ biết việc bị tố cáo là việc xấu, thậm chí là tội phạm. Họ muốn tội phạm bị trừng trị nghiêm minh nhưng nhiều người vẫn cảm thấy “áy náy” vì cho rằng vì mình đứng ra làm chứng mà người khác vào tù. Việc làm chứng với họ rất khó khăn nên thường thiếu nhiệt tình. Tìm thêm đồng minh là những người làm chứng khác để chứng tỏ rằng không chỉ có mình họ khai báo, tố giác tội phạm mà còn có thêm những người khác nữa, giải tỏa được tâm lý họ không phải là người duy nhất bị mọi người soi mói, không thấy áy náy nhiều bởi họ không là người duy nhất “đưa” người khác vào tù, cảm giác xấu hổ, áy náy đó sẽ được san sẻ. Nếu giữa người làm chứng và bị can, bị cáo có mối quan hệ thân quen thì họ còn có thêm tâm lý sợ bị đưa lên bàn cân của dư luận, bị mất lòng tin với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, họ sợ bị tẩy chay. Do vậy, trừ trường hợp kẻ phạm tội là kẻ dã man, đối xử tàn ác với gia đình người thân khiến ai cũng căm ghét còn hầu hết những người làm chứng có quan hệ gia đình, bạn bè với các đối tượng của vụ án đều tỏ ra thiếu trung thực, khai báo có lợi cho đối tượng.

- Người làm chứng có tâm lý sợ bị trả thù, thiếu niềm tin với các cơ quan tiến hành tố tụng. Thực tế trong những vụ án ma túy, buôn bán phụ nữ trẻ em, liên quan tới các băng nhóm tội phạm nhiều người làm chứng và người thân của họ đã bị đối tượng, đồng bọn hay gia đình đối tượng mua chuộc, dọa dẫm buộc họ phải im lặng hay khai báo có lợi cho đối tượng, nhiều người làm chứng đã bị trả thù. Vì vậy, nhiều người biết rõ sự việc phạm tội nhưng không dám tố giác tội phạm, khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập họ tìm cách thoái thác, thất hẹn hoặc khai báo theo những gì đã bàn bạc, thỏa thuận với đối tượng. Những nguyên nhân trên đều xuất phát từ tính toán về lợi ích cá nhân của người làm chứng.

- Ngoài những nguyên nhân trên còn phải kể đến một nguyên nhân nữa đó là sự đối xử không thiện chí, không khách quan từ phía những người tiến hành tố tụng với người làm chứng. Vụ án Nguyễn Minh Hùng (tỉnh Tây Ninh) là một ví dụ, nhiều nhân chứng trong vụ án này đã phải rơi nước mắt bởi sự đối xử thậm tệ của những người tiến hành tố tụng khi họ tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng, báo chí đã phải dùng từ “hành hạ nhân chứng” khi nói về vấn đề này.

1.1.3. Vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự

Người làm chứng là người biết được tình tiết của vụ án, được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng, có nghĩa vụ khai báo những tình tiết về vụ án với cơ quan tiến hành tố tụng. Người làm chứng là người không thể thay thế trong tố tụng bởi lẽ họ tham gia tố tụng không phụ thuộc vào ý chí của họ hay ý chí của những người tiến hành tố tụng mà do chính họ biết được những tình tiết của vụ án bằng việc nhìn thấy, nghe thấy được. Lời khai người làm chứng cung cấp các chứng cứ từ những con người cụ thể có đặc điểm tâm lý riêng biệt như đã phân tích. Những thông tin về vụ án được phản ánh và tái hiện lại qua lời khai của những con người cụ thể hoàn toàn khác nhau về tâm lý, về kinh nghiệm xã hội, về tính cách và nhân cách. Qua việc khai báo người làm chứng sẽ cung cấp các tình tiết mà họ biết về vụ án, có thể cung cấp những tài liệu, những tình tiết mới, từ đó cơ quan có thẩm quyền sẽ cùng với các nguồn chứng cứ khác dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Hoạt động tố tụng càng có tính tranh tụng cao bao nhiêu, sự bình đẳng về quyền của các bên trong hoạt động chứng minh càng được thừa nhận đầy đủ bao nhiêu thì vai trò người làm chứng càng được khẳng định. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật chỉ có thể mở rộng khả năng, làm thuận tiện hơn, dễ dàng hơn quá trình thu thập, lưu trữ, truyền tải các nguồn chứng cứ chứ không thể thay thế được những gì mà người làm chứng đã thấy được, biết được trong vụ án. Những tình tiết mà người làm chứng biết được vẫn là một trong những chứng cứ không thể thiếu được trong quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng niềm tin của nhân dân vào pháp luật, công lý.

1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam

Theo Từ điển Tiếng Việt địa vị là “vị trí, chỗ xứng đáng với vai trò tác dụng có được”, pháp lý là “căn cứ, cơ sở của pháp luật”. Địa vị của một cá nhân là vị trí của cá nhân đó trong những vai trò xã hội của mình, thể hiện năng lực trình độ, vai trò của cá nhân đó trong mối tương quan với các cá nhân khác trong xã hội. Địa vị này có thể do cá nhân đó tạo lập nên hoặc do thừa hưởng từ cá nhân khác. Điều này hoàn toàn khác so với địa vị pháp lý của một chủ thể trong quan hệ pháp luật. Địa vị pháp lý của một cá nhân không thể do cá nhân đó tự xác lập mà phải dựa trên những quy định của pháp luật; khi ở trong các tình trạng pháp lý khác nhau các chủ thể trong quan hệ pháp luật có địa vị pháp lý khác nhau.

Trong khoa học pháp lý, “địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối liên hệ với những chủ thể khác trên cơ sở quy định của pháp luật” thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể; qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể đối với các hoạt động của mình trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ đó. Địa vị pháp lý của một chủ thể giúp phân biệt được chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể đó trong các mối quan hệ pháp luật. Chính vì vậy nắm vững địa vị pháp lý của một chủ thể trong quan hệ pháp luật là một điều rất cần thiết không chỉ đối với chính chủ thể đó mà còn có ý nghĩa với các chủ thể khác. Có như vậy các chủ thể trong quan hệ pháp luật mới không xâm phạm đến quyền lợi và thực hiện chồng lấn nghĩa vụ của nhau.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 55 BLTTHS năm 2003 thì: Người làm chứng là người biết được tình tiết liên quan tới vụ án (trực tiếp hoặc gián tiếp biết); người đó phải được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập với tư cách người làm chứng. Khi được triệu với tư cách người làm chứng họ trở thành người tham gia tố tụng trong vụ án. Họ có địa vị pháp lý của mình, địa vị pháp lý này là độc lập, riêng biệt với địa vị pháp lý của bị can, bị cáo cũng như các chủ thể có tư cách tố tụng khác trong vụ án hình sự. Người làm chứng cũng không phải là người có quyền và lợi ích liên quan tới vụ án, sự có mặt của họ chỉ nhằm mục đích là làm sáng tỏ vụ án hay nói cách khác họ là những người cộng tác với Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng.

Qua nghiên cứu ở các phần trên ta có thể đưa ra khái niệm địa vị pháp lý người làm chứng: Địa vị pháp lý của người làm chứng là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người làm chứng mà pháp luật quy định cho họ khi tham gia tố tụng hình sự.

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Chế định người làm chứng là một trong những chế định cổ xưa nhất trong lịch sử tố tụng hình sự, được ghi nhận như chế định quan trọng vì vai trò không thể thay thế được của người làm chứng trong việc xác định sự thật khách quan. Người làm chứng có các đặc điểm về tâm lý và nhận thức riêng của mình nên thường ảnh hưởng tới nghĩa vụ khai báo. Người làm chứng tham gia tố tụng khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập, họ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, các quyền và nghĩa vụ này do luật định nhằm đảm bảo quyền con người của người làm chứng được tốt nhất cũng như để giúp cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án.

CHƯƠNG II

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam thông qua ngày 26/11/2003 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2004 thay thế cho Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Bộ luật tố tụng năm 2003 xây dựng dựa trên sự phát huy những giá trị truyền thống trong pháp luật tố tụng nước ta và sự kết hợp có chọn lọc từ pháp luật các nước khác trên thế giới với hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay để có sự bổ sung hợp lý nhất. Về địa vị pháp lý của người làm chứng, nếu Bộ luật tố tụng hình sự 1988 chỉ quy định nghĩa vụ cho họ thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ sung thêm quy định về quyền của người làm chứng nhằm bảo vệ họ khi tham gia quá trình giải quyết vụ án theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng.

Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng được quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 55 BLTTHS năm 2003.

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền của người làm chứng

Người làm chứng là chủ thể thực hiện chức năng hỗ trợ tư pháp - chức năng không cơ bản trong TTHS. Chức năng này hiện chưa được đề cập nhiều trong khoa học TTHS ở nước ta. Sự hạn chế về lý luận khoa học này chính là nguyên nhân chậm thay đổi trong tư duy lập pháp khi sửa đổi BLTTHS năm 2003 và thái độ đối xử thiếu quan tâm đối với người làm chứng trong thực tiễn tố tụng. BLTTHS năm 2003 lần đầu quy định các quyền cho người làm chứng.

2.1.1. Quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng (điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003)

Người làm chứng có thể gặp nguy hiểm hoặc chịu những hậu quả bất lợi do việc họ tham gia tố tụng và khai báo về những tình tiết của vụ án. Sự nguy hiểm về tính mạng hoặc những hậu quả bất lợi đó có thể do bị can, bị cáo, người bị hại trong vụ án hoặc những người khác đem lại, cũng có thể những hậu quả bất lợi đó do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (có thể trong khi lấy lời khai một số người tiến hành tố tụng có hành vi làm ảnh hưởng tới nhân phẩm, tài sản hoặc sức khỏe của người làm chứng). Vì vậy, người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn và các quyền lợi hợp pháp của người làm chứng và không được có hành vi làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của họ.

Điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003 là sự cụ thể hóa một số quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận như: Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự, quyền được pháp luật bảo hộ về nhân phẩm (quy định tại Điều 71); Quyền được pháp luật bảo hộ về quyền sở hữu đối với tài sản, thu nhập hợp pháp (Điều 58). Điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS còn là sự cụ thể hóa một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự - nguyên tắc bảo hộ tính mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm tài sản của công dân, được quy định tại Điều 7 “Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Việc BLTTHS năm 2003 xác định rõ quyền của người làm chứng được yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật là một đòi hỏi khách quan, thể hiện thái độ trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân để nhân dân có thể tin tưởng và an tâm tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là sự đánh dấu lần đầu tiên trong hoạt động tố tụng hình sự vấn đề bảo vệ người làm chứng được quy định trong luật, là dấu hiệu thể hiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đang xích gần với thông lệ quốc tế trong lĩnh vực này. Có thể tìm thấy trong các văn kiện Quốc tế ghi nhận những nội dung liên quan đến quyền con người trong tố tụng hình sự như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR)... Một trong những bước ngoặt lớn trong phát triển của pháp luật quốc tế liên quan đến bảo vệ người làm chứng là Tuyên ngôn về những nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng quyền lực do Liên hiệp quốc ban hành ngày 29/11/1985. Các văn bản này đưa đến một khẳng định quyền con người trong tố tụng hình sự là sự cụ thể quyền được sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn kiện về quyền con người.

Do đó khi tham gia vào hoạt động TTHS, nếu người làm chứng nhận thấy có người đe dọa hoặc có khả năng bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì có thể yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng đã triệu tập mình bằng các biện pháp cần thiết bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền lợi ích hợp pháp khác của mình, như yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng cử người bảo vệ hoặc giao các tài sản của cá nhân cho cơ quan tiến hành tố tụng tạm thời bảo quản.

Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác là quyền chính đáng của một công dân khi tham gia vào hoạt động TTHS, bảo vệ quyền con người của người làm chứng là nghĩa vụ của nhà nước và các cơ quan THTT nhằm đảm bảo cho quá trình phát hiện xử lý tội phạm được chính xác và toàn diện.

2.1.2. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm b khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003)

Đây là sự cụ thể hóa một trong những quyền hiến định cơ bản của công dân thuộc nhóm quyền về chính trị quy định tại Điều 74 Hiến pháp năm 1992 “Công dân có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào”. Theo quy định của BLTTHS thì người làm chứng cũng là một chủ thể tham gia tố tụng. Việc quy định người làm chứng có quyền khiếu nại các quyết định hay hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng thể hiện sự bình đẳng cho tất cả chủ thể tham gia tố tụng, phù hợp với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được quy định tại Điều 5 BLTTHS năm 2003. Đồng thời cũng thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật TTHS nước ta, nó có ý nghĩa không những đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn góp phần vào việc khắc phục sai lầm của cơ quan THTT và người THTT trong quá trình giải quyết vụ án. Hơn nữa quy định như vậy cũng nhằm làm cho người làm chứng quan tâm hơn tới các quyết định và hành vi của cơ quan, người tiến hành tố tụng liên quan tới quyền lợi hợp pháp của mình để họ có thể bảo vệ quyền lợi cho mình khi tham gia TTHS.

Quyền được khiếu nại này được ghi nhận là một nguyên tắc của TTHS. Điều 31 BLTTHS năm 2003 quy định: “Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó”. BLTTHS năm 2003 đã dành hẳn một chương quy định về khiếu nại, tố cáo (chương XXXV), thể hiện rõ mục tiêu và trách nhiệm bảo đảm thực hiện dân chủ trong hoạt đông tố tụng hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những quy định về khiếu nại, tố cáo được hướng dẫn thi hành tại Thông tư liên tịch số 02/2005/ TTLT – VKSNDTC – TANDTC – BCA – BTP ngày 10/8/2005.

Theo đó, nếu người làm chứng nhận thấy các quyết định, hành vi của cơ quan, người tiến hành tố tụng là sai trái, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân thì có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Có quyền khiếu nại điều tra viên không đọc và giải thích cho họ về quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ, khiếu nại điều tra viên không khách quan trong việc thực hiện đối chất, có quyền đề nghị được biết những tình tiết cần làm rõ...

2.1.3. Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật (Điểm c khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003)

Người làm chứng tham gia tố tụng vì lợi ích chung của cộng đồng và xã hội, không phải vì tính chất công việc như những chủ thể của chức năng hỗ trợ tư pháp khác. Quy định đây là một quyền của người làm chứng có thể coi là đặc thù mà những chủ thể hỗ trợ cho hoạt động tố tụng hình sự khác như người giám định, người phiên dịch không có được. Việc thanh toán chi phí đi lại và những những chi phí khác tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí vật chất cho người làm chứng thực hiện nghĩa vụ công dân của mình, loại bỏ tâm lý “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”. Thúc đẩy người làm chứng tích cực thực hiện nghĩa vụ của mình.

Theo quy định trên, người làm chứng có thể liệt kê các chi phí liên quan đến việc đi lại, ăn ở (trong trường hợp người làm chứng ở xa) và các chi phí khác, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán các chi phí đó.

Quy định người làm chứng được quyền thanh toán các chi phí theo quy định của khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003 là hợp lý nhưng chưa đầy đủ và cụ thể để có thể thực hiện thống nhất trên thực tế. Thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán chi phí đi lại cho người làm chứng theo hóa đơn hoặc giấy xác nhận. Giả sử để kịp thời gian ghi trong giấy triệu tập, người làm chứng phải mua vé máy bay với giá cao hơn thì có được thanh toán không hay là chỉ theo mức quy định của pháp luật? Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định cụ thể những loại chi phí khác được thanh toán trong quá trình người làm chứng thực hiện nghĩa vụ tố tụng. Do vậy, các quy định của luật vẫn chưa thực sự đảm bảo được quyền lợi cho người làm chứng, khuyến khích họ thực hiện nghĩa vụ của mình.

Đối với người làm chứng dưới 16 tuổi khi lấy lời khai phải có mặt của cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc thầy, cô giáo của người đó tham dự (Khoản 5 Điều 135 BLTTHS năm 2003). Nhưng luật tố tụng hình sự hiện nay không quy định những chủ thể này cũng được cơ quan triệu tập thanh toán. Thiếu sót này trong quy định của pháp luật cũng phần nào làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án hình sự.

2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nghĩa vụ của người làm chứng

Trong tố tụng hình sự người làm chứng là người tham gia tố tụng để thực hiện nghĩa vụ công dân. Do biết được các tình tiết liên quan tới vụ án nên người làm chứng phải thực hiện nghĩa vụ công dân của mình trong đấu tranh chống tội phạm. Vì vậy, tư cách tố tụng của người làm chứng được thể hiện qua các nghĩa vụ tố tụng sau:

2.2.1. Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải (điểm a khoản 4 Điều 55 BLTTHS năm 2003)

Khoản 1 Điều 25 BLTTHS năm 2003 quy định “Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, tổ chức”. Như vậy, trách nhiệm phòng, chống tội phạm là nghĩa vụ của mọi công dân với Nhà nước. Người làm chứng khi nhận được giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu họ thực hiện nghĩa vụ công dân của mình để giải quyết một vụ án cụ thể phải có mặt theo giấy triệu tập đó. Sự có mặt của người làm chứng đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập là cần thiết có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết án. Qua hoạt động lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, tình tiết của vụ án sẽ được làm rõ. Tại phiên tòa, sự có mặt của người làm chứng là điều cần thiết. Qua xét hỏi lời khai trước đó của người làm chứng với cơ quan điều tra sẽ được thẩm tra lại và làm rõ tại phiên tòa, chúng sẽ được sử dụng làm căn cứ xác định tội phạm, quyền được bào chữa của bị cáo cũng được đảm bảo. Nếu người làm chứng vắng mặt không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây khó khăn, trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải. Quy định là một nghĩa vụ nhằm bảo đảm sự có mặt của người làm chứng khi được triệu tập, hạn chế việc họ lẩn tránh, thoái thác trách nhiệm không chịu hợp tác. Ngoài ra quy định này còn góp phần bảo đảm vấn đề liên quan tới kinh phí giải quyết vụ án. Điều này ta có thể nhận thấy rõ nhất trong trường hợp các phiên tòa mà người làm chứng quan trọng vắng mặt thì Hội đồng xét xử có thể sẽ phải quyết định hoãn phiên tòa (Điều 192 BLTTHS năm 2003). Tại Anh trong năm 2002-2003, có 2.845 vụ án ở Tòa án Hoàng gia và 13.328 vụ án ở tòa án sơ thẩm đã bị hoãn vì nhân chứng vắng mặt, chiếm 22% và 26% số vụ án bị hoãn. Cơ quan kiểm toán quốc gia Anh ước tính mỗi năm các phiên tòa bị hoãn đã gây thiệt hại 41 triệu bảng (hơn 1.000 tỷ đồng). BLTTHS Đức có quy định: Nếu người làm chứng vắng mặt không có lý do chính đáng, họ sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật. Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự đồng thời cũng quy định hậu quả của việc người làm chứng vắng mặt. Họ sẽ phải chịu trách nhiệm đối với chi phí do việc vắng mặt gây ra, đồng thời phải chịu một khoản tiền phạt bắt buộc. Tuỳ từng trường hợp mà họ có thể bị tạm giam hoặc cưỡng chế ra làm chứng lần thứ hai trước Toà.

Việc vắng mặt của người làm chứng còn ảnh hưởng tới công việc của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người tham gia phiên tòa như cảnh sát hỗ trợ tư pháp... vì công việc tại Tòa án không phải là công việc thường xuyên mang tính chất nghề nghiệp của họ. Bên cạnh thiệt hại về kinh tế là thiệt hại về công lý. Nếu người làm chứng không có mặt tại phiên tòa Hội đồng xét xử sẽ không thể thẩm tra lại chứng cứ mà người làm chứng đã cung cấp tại cơ quan điều tra. Từ đó quyền bào chữa của bị cáo sẽ khó được bảo đảm, hoạt động xét xử có thể gặp những khó khăn và thậm chí đi đến bế tắc. Hậu quả xấu nhất có thể xảy ra là kẻ phạm tội đích thực không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tiếp tục nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Việc không xác định được sự thật vụ án để xác định trách nhiệm hình sự còn gây hoang mang trong dư luận, tạo cơ hội cho các phần tử phản động lợi dụng chống phá Đảng và Chính quyền Nhà nước.

Khoản 2 Điều 133 quy định về triệu tập người làm chứng như sau “Các cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm tạo điều kiện cho ngươời làm chứng thực hiện nghĩa vụ”. Nhưng quy định này dường như không thực hiện được trên thực tế vì trong các luật chuyên ngành không quy định về quyền của người lao động được nghỉ công việc tham gia làm chứng trong một vụ án hình sự. Trong Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung năm 2002, 2003, 2007 chỉ quy định thời gian nghỉ hưởng nguyên lương là nghỉ hàng năm (Điều 74), nghỉ về việc riêng (Điều 78), nghỉ những ngày lễ (Điều 73)... Luật Cán bộ công chức năm 2008 cũng không có quy định nào về việc cán bộ, công chức được phép nghỉ làm tại cơ quan để thực hiện nghĩa vụ làm chứng của mình. Việc người làm chứng phải nghỉ công việc có được tính vào thời gian làm việc theo quy định của pháp luật lao động không? Như vậy có thể nói người lao động bị “kẹt” giữa BLTTHS và các quy phạm luật điều chỉnh quan hệ lao động của họ.

2.2.2. Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án (Điểm b khoản 4 Điều 55 BLTTHS năm 2003)

Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều 308 của Bộ luật hình sự; khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều 307 của Bộ luật hình sự (Điểm b khoản 4 Điều 55 Bộ luật TTHS).

Người làm chứng tham gia tố tụng với chức năng hỗ trợ Cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vụ án. Lời khai gian dối của người làm chứng có thể làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tội phạm cần phải được trừng trị nghiêm minh, do vậy khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án là một trong những nghĩa vụ quan trọng của một người công dân nhất là đối với người làm chứng - một chủ thể tham gia tố tụng vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới còn buộc người làm chứng phải tuyên thệ cam đoan lời khai của mình là đúng sự thật. Bộ luật Tố tụng hình sự Hàn Quốc quy định về lời thề của người làm chứng tại Điều 156 và Điều 157. Điều 156 quy định: "Một nhân chứng sẽ bắt buộc phải thề trước khi bị thẩm vấn, trừ khi Luật quy định khác". Điều 157 Bộ luật quy định mẫu lời thề tuyên thệ: Văn bản tuyên thệ sẽ ghi "Tôi thề rằng tôi sẽ nói sự thật, toàn bộ sự thật và không phải là cái gì khác ngoài sự thật mà tôi được biết, nếu có điều gì sai trái trong lời nói của tôi, tôi sẽ bị xử phạt". Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp, ngoài việc quy định người làm chứng phải tuyên thệ và khai tại Điều 437, Điều 438 còn quy định cụ thể về trách nhiệm của người làm chứng: "Nếu người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa hoặc không chịu tuyên thệ, không chịu khai, thì Viện Công tố có thể yêu cầu Tòa tiểu hình xử phạt người này theo quy định tại Điều 109". Như vậy, pháp luật hầu hết các nước đều quy định chế tài xử phạt với hành vi gian dối, gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án. Pháp luật Việt Nam quy định nếu người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều 308 của Bộ luật hình sự; khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều 307 của Bộ luật hình sự. Việc người làm chứng cam đoan không khai gian dối quy định tại khoản 1 Điều 204 BLTTHS năm 2003, là một biện pháp giúp người làm chứng thấy được rõ hơn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình tại tòa. Người làm chứng là người chưa thành niên không phải cam đoan.

BLTTHS năm 2003 mặc dù được sửa đổi, bổ sung sau BLHS năm 1999 nhưng chưa tiếp thu được tư tưởng nhân đạo thể hiện trong BLHS. Cụ thể, Điều 22 BLHS năm 1999 đã quy định hành vi không tố giác tội phạm của những người là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của kẻ phạm tội không phải là tội phạm (trừ trường hợp không tố giác tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng). Quy định này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với khía cạnh đạo đức trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Nhà nước đã đặt lợi ích của mình - lợi ích về đấu tranh chống tội phạm trong mối quan hệ với lợi ích cá nhân để phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc. Tuy nhiên BLTTHS năm 2003 khi quy định về nghĩa vụ của người làm chứng đã không tiếp thu và phát triển được tư tưởng nhân văn này ngay trong khoa học pháp lý của nước ta chưa nói đến trào lưu nhân đạo hóa, mở rộng bảo đảm quyền con người trong TTHS của nhiều nước trên thế giới.

Vấn đề nữa đặt ra là khi người làm chứng khai ra một số tình tiết mà lời khai đó lại “bắt tội” lại chính họ thì trong trường hợp này pháp luật sẽ xử lý ra sao? Trường hợp của Nguyễn Việt Tiến trong vụ PMU 18 là một ví dụ. Ngày 6/3/2006 vụ án đưa nhận hối lộ và cố ý làm trái tại PMU 18 được khởi tố. Bùi Tiến Dũng - Tổng giám đốc PMU 18 và Phạm Tiến Dũng - Chánh văn phòng đã bị bắt, bị khởi tố bị can. Tại thời điểm đó ông Nguyễn Việt Tiến là Thứ trưởng Bộ giao thông vận tải. Ngày 20/3/2006 ông Tiến được cơ quan điều tra triệu tập với tư cách người làm chứng. Sau nhiều lần trình diện theo triệu tập của cơ quan điều tra, ngày 04/04/2006 ông Tiến đã bị khởi tố bị can về tội cố ý làm trái và thiếu trách nhiệm và bị tạm giam. Khi tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng ông Tiến phải có nghĩa vụ trình diện, khai báo và khai báo trung thực những gì ông biết về sai phạm của Bùi Tiến Dũng nếu không sẽ bị dẫn giải, bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 và Điều 308 BLHS. Trong bối cảnh này Nguyễn Việt Tiến không còn lựa chọn nào khác là phải trình bày trung thực, trả lời trung thực những câu hỏi của cơ quan điều tra, kể cả những câu hỏi về trách nhiệm của ông với tư cách là cấp trên của bị cáo Bùi Tiến Dũng. Những lời khai này của ông sau đó đã trở thành một trong những căn cứ để chống lại chính ông - căn cứ khởi tố bị can đối với ông. Thực hiện nghĩa vụ tố tụng vì lợi ích chung nhưng việc này có thể dẫn đến hệ quả là bản thân người làm chứng, người thân của họ có thể phải đối mặt với những bất lợi trong tương lai: Có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trên cơ sở những lời khai mà họ có nghĩa vụ phải khai không được từ chối. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới đã có hướng dẫn về vấn đề này. Pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định người làm chứng được từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào buộc tội những người thân thích của họ. Điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định: "Một người làm chứng có thể từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà có thể nghiêng về hướng buộc tội những người sau đây:

- Vợ chồng, người thân ruột thịt trong phạm vi ba đời hoặc người bà con gần gũi trong phạm vi hai đời của người làm chứng hoặc người đã có mối quan hệ với người làm chứng.

- Người giám hộ, người giám sát của người giám hộ hoặc người phụ trách của người làm chứng.

- Người mà được người làm chứng giám hộ, phụ trách hoặc giám sát người giám hộ của người đó.

Pháp luật TTHS Đức cũng có quy định : Nhân chứng phải có nghĩa vụ xuất hiện trước Tòa, phải tường thuật sự việc đã thấy và phải thề nói sự thật về việc nói sự thật – tuyên thệ (trừ trường hợp nhân chứng là vị thành niên dưới 16 tuổi, hoặc những người không hiểu hết tầm quan trọng và bản chất lời tuyên thệ do họ có có nhược điểm, khiếm khuyết về  trí tuệ, tâm thần (Điều 60 - 67 BLTTHS Đức). Những trường hợp vụ việc dính tới người thân thiết hoặc lời tường thuật có thể làm hại chính mình tức là nói lên cái gì đó bắt tội chính mình thì có thể có ngoại lệ. Người làm chứng có quyền từ chối làm chứng trong một số trường hợp sau:

- Người thân hoặc họ hàng của bị cáo  có thể từ chối đưa ra chứng cứ  nếu thấy rằng việc đó có thể dẫn đến xung đột, ảnh hưởng tới việc thực hiện bổn phận đạo đức của họ. Đó là vợ chồng (kể cả khi hôn nhân không còn tồn tại), vợ chồng chưa cưới và những người trong quan hệ trực hệ hoặc quan hệ theo hôn nhân, quan hệ hàng bệ ở hàng thứ ba (như cha mẹ, con cái, ông bà, cụ kị, cháu chắt, anh chị em ruột và con cái của họ) hoặc có quan hệ theo hôn nhân ở hàng thứ hai với bị can, bị cáo. Những mối quan hệ từ hôn nhân như thông gia cũng có đặc quyền này nhưng hạn chế hơn (Điều 52).

- Những người làm ở một số nghề nghiệp luật định được quyền từ chối đưa ra chứng cứ vì lý do bí mật nghề nghiệp. Quy định này được áp dụng đối với linh mục, luật sư, bác sỹ và các cộng sự của họ (Điều 53). Nhà báo và những người có liên quan đến việc sản xuất hoặc phát hành báo chí, ấn phẩm xuất bản định kỳ khác, những người thi hành một số nhiệm vụ công như thành viên của các cơ quan lập pháp (thành viên của Quốc hội liên bang, Quốc hội bang hoặc cơ quan lập pháp cấp hai liên quan đến những người nắm giữ thông tin vì chức năng của họ) cũng có thể được hưởng quyền này. Những người này có quyền giữ im lặng đối với những vấn đề cụ thể liên quan đến chuyên môn hay thẩm quyền của họ.

- Viên chức nhà nước, gồm các Thẩm phán và những người làm việc tại các nhiệm sở, có quyền từ chối đưa ra chứng cứ về những vấn đề bí mật liên quan đến công việc của họ (Điều 54). Tuy nhiên, nếu được cấp trên cho phép thì họ cũng có thể trả lời về những vấn đề này.

- Các nhân chứng không nhất thiết phải khai báo nếu câu trả lời câu hỏi cụ thể nào đó có thể làm cho họ hoặc một trong số những người họ hàng của họ có nguy cơ bị truy tố hình sự hoặc kết tội (Điều 55). Luật TTHS CHLB Đức còn quy định: các nhân chứng phải được thông báo về quyền không phải khai báo khi bị thẩm vấn  và có thể tự quyết định từ bỏ quyền này, đưa ra chứng cứ. Nếu nhân chứng không được thông báo về quyền này thì lời khai của họ không được thừa nhận là chứng cứ, trừ khi nhân chứng biết quyền này và họ quyết định từ chối khai báo. Có thể nói đây là một quy định linh hoạt, người làm chứng có quyền lựa chọn sao cho phù hợp với mình.

Việc bổ sung các quy định về quyền của người làm chứng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện chế định người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam. Những sửa đổi bổ sung tiến bộ về bảo đảm quyền của người làm chứng trong tố tụng hình sự là dấu hiệu thể hiện pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã quan tâm đến quyền con người theo nghĩa rộng. BLTTHS năm 2003 quy định rất nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm của người làm chứng nhưng lại không có quy đinh nào về chế độ đãi ngộ, khuyến khích người làm chứng trong việc hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy chưa khuyến khích được người làm chứng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

2.3. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm các quyền pháp lý của người làm chứng

Điều 7 BLTTHS năm 2003 quy định: “Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật”, đây là một nội dung mới quan trọng được bổ sung mang tính nguyên tắc của BLTTHS năm 2003 và được cụ thể tại khoản 5 Điều 211 BLTTHS “Trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng và những người thân thích của họ, Hội đồng xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Đi đôi với việc quy định cho người làm chứng có quyền được hưởng sự bảo vệ từ cơ quan tiến hành tố tụng, BLTTHS năm 2003 cũng quy định về trách nhiệm của cơ quan và người tiến hành tố tụng, tạo sự ràng buộc trách nhiệm từ phía Nhà nước đảm bảo thực thi quyền lợi cho người làm chứng. Điều 12 BLTTHS quy định “Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi quyết định của mình”, Điều 62 BLTTHS cũng đã chỉ rõ “Cơ quan, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này. Việc giải thích phải được ghi vào biên bản”. Và do vậy trong các hoạt động lấy lời khai người làm chứng, đối chất, nhận dạng người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng biết (Điều 135, Điều 138, Điều 139 và Điều 204 BLTTHS năm 2003). Đó như là một sự đảm bảo cần thiết cho người làm chứng biết về quyền và nghĩa vụ của mình, để họ tự đảm bảo quyền lợi cho mình và thực hiện nghĩa vụ tố tụng. Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 cũng đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm của Cơ quan Điều tra tại khoản 3 Điều 7 như sau: “Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Cơ quan điều tra phải xem xét, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan, tổ chức đã báo tin, kiến nghị, người đã tố giác tội phạm biết và phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm”.

Trong các văn bản luật chuyên nghành, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền của người làm chứng cũng được ghi nhận. Luật An ninh quốc gia năm 2004 quy định: các cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia có trách nhiệm “áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người cộng tác, người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia” (điểm h khoản 1 Điều 24). Nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện một số quy định của Luật An ninh quốc gia, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2005/NĐ-CP ngày 14/12/2005 về quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó quy định tương đối chi tiết, cụ thể về công tác bảo vệ người cộng tác, người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án khác do cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia thụ lý.

Lĩnh vực phòng, chống ma tuý là nơi mà người tố giác, người làm chứng, người bị hại có nguy cơ bị tấn công hoặc bị xâm hại đặc biệt lớn. Chính vì vậy, Luật Phòng, chống ma tuý năm 2000 đã quy định: Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma tuý trong Công an nhân dân được “áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác, người làm chứng và người bị hại trong các vụ án về ma tuý” (điểm e khoản 1 Điều 13). Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 quy định điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma tuý thuộc Công an nhân dân và đã dành riêng Chương VII để quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại. Tiếp đó, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 09/2004/TT-BCA(V19) ngày 16/6/2004 hướng dẫn áp dụng một số biện pháp bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án về ma tuý.

Trong Luật Công an nhân dân năm 2005, khi quy định về chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân cũng đã khẳng định: “Nhà nước bảo vệ, giữ bí mật cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội” (khoản 1, Điều 13 Luật công an nhân dân năm 2005).

Như vậy, các nhà làm luật đã có những hướng dẫn khá cụ thể quy định bảo vệ người làm chứng, tuy nhiên phạm vi của những hướng dẫn này còn hẹp chỉ tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực quan trọng nơi mà tội phạm thường có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội. Quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, chưa chỉ rõ trách nhiệm của từng cơ quan và người tiến hành tố tụng, quy định mới chỉ là những quy định chung, chưa thể áp dụng được trên thực tiễn và vì vậy việc bảo vệ người làm chứng cũng chỉ mới dừng lại ở trên “giấy tờ”.

KẾT LUẬN CHƯƠNG II

Người làm chứng là chế định quan trọng của TTHS Việt Nam. Bộ luật TTHS năm 2003 đã có bước tiến đáng kể so với BLTTHS năm 1988 khi bổ sung các quy định về quyền của người làm chứng, làm cho người làm chứng có địa vị pháp lý đầy đủ và rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người làm chứng khi tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự. Qua phân tích có thể khẳng định người làm chứng không được hưởng một lợi ích vật chất hay tinh thần nào khi tham gia vào vụ án. Các quyền mà BLTTHS thừa nhận cho người làm chứng chỉ là quyền yêu cầu được bù đắp những thiệt thòi, mất mát hoặc ngăn chặn những mất mát, tổn thất có thể xảy ra đối với họ liên quan đến sự hợp tác của họ với cơ quan tiến hành tố tụng. BLTTHS năm 2003 chưa tạo ra được cơ sở pháp lý phù hợp để khuyến khích người làm chứng tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân của mình - hợp tác với Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm và xác lập chân lý của vụ án.

Pháp luật quy định người làm chứng có những quyền và nghĩa vụ nhất định nhưng việc bảo đảm quyền mới chỉ là dừng lại trên cơ sở quy định pháp luật còn thực tế thực hiện thì còn gặp nhiều vướng mắc. Chương 3 của khóa luận sẽ đi vào tìm hiểu thực trạng thực thi những quy định đó, nguyên nhân và giải pháp của vấn đề, qua đó góp phần hoàn thiện chế định người làm chứng trong TTHS Việt Nam.

CHƯƠNG III

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

3.1. Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật hiện hành về quyền, nghĩa vụ của người làm chứng và nguyên nhân của thực trạng

3.1.1. Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng

3.1.1.1. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của người làm chứng trong tố tụng hình sự

- Về việc có mặt theo giấy triệu tập của người làm chứng

Theo ước tính của các cơ quan chức năng, có khoảng 20% trong tổng số các vụ án xảy ra thời gian qua được phát hiện nhờ có sự tham gia của người dân và tuyệt đại đa số vụ án xảy ra đều có người làm chứng… Với nghĩa vụ công dân, những người làm chứng đã tích cực phối hợp với cơ quan tố tụng làm rõ tội phạm và người phạm tội, áp dụng các hình thức xử lý đúng quy định.

Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn nhiều vụ án hình sự, người làm chứng tỏ ra e ngại trong việc hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng nên khi được triệu tập đã không có mặt. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là người làm chứng bị tác động từ phía đối tượng (người làm chứng bị đe dọa, mua chuộc...). Mặc dù chưa có cơ quan, đơn vị nào có báo cáo hoặc thống kê chính thức về tình hình đe doạ, xâm hại đối với người làm chứng trong vụ án hình sự, nhưng qua nghiên cứu một số vụ án xảy ra, có thể xác nhận những tác động của người phạm tội hoặc thân nhân của họ như mua chuộc, đe dọa, gây thiệt hại là có thật và là nguyên nhân dẫn đến một số vụ án hình sự không được làm rõ hoặc không được xử lý triệt để và dẫn đến các kết quả tiêu cực khác. Trong một số vụ án, với thủ đoạn che giấu tội phạm bằng cách mua chuộc, đe dọa và thực hiện các hành vi bạo lực, kẻ phạm tội đã khiến công dân hoang mang, lo sợ, không dám ra làm chứng, dẫn đến những vụ án này không được xử lý triệt để, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự sa vào tình trạng ra các quyết định không chính xác so với thực tế của vụ án. Có thể tạm thời xác định các hành vi tác động đến người làm chứng trên thực tế được coi là phổ biến bao gồm:

- Mua chuộc người làm chứng: Được hiểu là việc người phạm tội hoặc thân nhân của họ sử dụng lợi ích vật chất hay những lợi ích khác để tác động tới người làm chứng để họ không hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án. Đây là thủ đoạn được sử dụng phổ biến nhất và người làm chứng từ chối khai báo hoặc khai báo không khách quan, khai báo theo hướng có lợi cho kẻ mua chuộc, dẫn đến việc cơ quan tiến hành tố tụng không đủ căn cứ để xử lý đối tượng gây án hoặc xử lý không chính xác, xử lý theo hướng giảm nhẹ.

- Khống chế, đe dọa người làm chứng: Được hiểu là việc người phạm tội hoặc thân nhân của họ lợi dụng những yếu điểm về thể chất, quan hệ huyết thống, bí mật về đời tư của người làm chứng để tác động, làm cho họ lo sợ bị tiết lộ, hoặc sẽ bị xâm hại nếu cung cấp thông tin về tội phạm cho các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Trả thù người làm chứng: Được hiểu là trường hợp người phạm tội hoặc thân nhân của họ trực tiếp hoặc thông qua người thứ ba cố ý gây ra những thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản cho người làm chứng hoặc người thân thích của họ do việc họ đã hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến hành vi phạm tội của đối tượng. Trả thù không những gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản cho người làm chứng mà còn gây lo lắng, sợ hãi trong công chúng, làm cho họ không dám tố giác, làm chứng trong các vụ án sau đó, cũng như gây ra sự thiếu tin tưởng vào khả năng bảo vệ công dân của các cơ quan nhà nước. Đây có lẽ là thiệt hại nặng nề nhất mà công lý phải chịu.

Thực tiễn xét xử ở nước ta cho thấy trong nhiều vụ án lớn liên quan đến băng nhóm xã hội đen như vụ án Phúc bồ, Khánh trắng (Hà Nội), Năm Cam (TP. Hồ Chí Minh) thì gần như những người làm chứng được tòa án triệu tập đã không có mặt. Gần đây trong một vụ án về tội cố ý gây thương tích Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã phải hoãn phiên tòa vì vắng mặt nhiều người làm chứng quan trọng. Sau đó Tòa xuống địa phương xác minh và làm việc với từng người làm chứng. Họ đều khẳng định đã nhiều lần khai với cơ quan điều tra về các tình tiết của vụ án, cam đoan lời khai của mình là đúng sự thật và chịu trách nhiệm về lời khai của mình nhưng kiên quyết từ chối ra tòa. Họ giải thích trong vụ án còn có một người đi theo “bảo kê” cho bị cáo nhưng cơ quan điều tra không làm rõ lai lịch và vai trò của người này trong vụ án. Vì ngại “người chưa lộ mặt ” này nên họ không dám ra tòa làm chứng. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cho rằng áp dụng dẫn giải người làm chứng trong trường hợp này là “làm khó” cho họ. Hay như vụ tai nạn giao thông trên đường cao tốc Láng - Hòa Lạc (Vụ án ôtô đâm chết 02 học sinh lớp 9 Phạm Phương Linh và Phạm Anh Thư xảy ra ngày 19/11/2001, trên đường cao tốc Láng - Hòa Lạc, Hà Nội. Thủ phạm gây tai nạn là Phạm Hồng Quân, con trai một trung tá cảnh sát giao thông thành phố Hà Nội), tại phiên tòa phúc thẩm ngày 18/04/2007, chỉ có 15/50 nhân chứng được HĐXX triệu tập có mặt tại phiên tòa. Nhiều nhân chứng quan trọng vắng mặt đều không có lý do. Một phiên tòa khác cũng tại Hà Nội được báo chí phản ánh vì sự vắng mặt của người làm chứng với lý do người làm chứng bị đe dọa. Vụ án xét xử bị cáo Đặng Đình Tiến, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Từ Liêm, Hà Nội bị tố cáo có hành vi đòi tiền, ép buộc gia đình anh Nguyễn Văn Tình phải nộp 30 triệu đồng để Tiến "lo chạy" cho gia đình anh Tình thắng kiện trong vụ kiện dân sự tranh chấp mốc giới đất ở giữa gia đình anh Tình và gia đình hàng xóm là chị Nguyễn Thị Khánh. Trong vụ án tranh chấp này Tiến được cơ quan phân công giám sát. Gia đình nhân chứng Nguyễn Thị Khánh đã có một viết thư tay gửi đến Hội đồng xét xử trình báo nội dung: Khi gia đình bà Khánh chuẩn bị đến dự phiên tòa thì trước khi đi có một cuộc điện thoại nặc danh gọi vào điện thoại của gia đình, với nội dung đe dọa: "Nếu em tôi (ý nói KSV Đặng Đình Tiến) có làm sao thì vợ chồng chị sẽ đứng đường" - vì lo sợ bị đe dọa trả thù, nên gia đình bà Khánh đã không dám tới dự phiên tòa nói trên. Do sự vắng mặt của nhân chứng Nguyễn Thị Khánh nên Hội đồng xét xử TAND TP Hà Nội đã tuyên hoãn phiên tòa vì bị cáo Đặng Đình Tiến đòi phải cho đối chất với nhân chứng Khánh và vợ chồng anh Nguyễn Văn Tình.

Bên cạnh việc bị tác động từ phía đối tượng, nhiều người làm chứng chưa hiểu được nghĩa vụ của mình nên vẫn còn có thái độ dửng dưng hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng. Tìm hiểu thực tế tại TAND Huyện Văn Quan (Lạng Sơn) trong năm 2009 trong tổng 26 vụ án hình sự có tất cả 28 người làm chứng được triệu tập nhưng chỉ có 10 người có mặt tại tòa, 18 người vắng mặt đều không có lý do. Đặc biệt trong một vụ án cướp giật tài sản, tòa triệu tập 07 người làm chứng nhưng cả 07 người này đều vắng mặt. Năm 2010 có 20 vụ án hình sự nhưng chỉ có 08 nhân chứng có mặt khi được tòa triệu tập, 06 nhân chứng vắng mặt cũng đều không có lý do. Tìm hiểu cho thấy đa phần người làm chứng vắng mặt đều cho rằng trước đó họ đã khai tại cơ quan điều tra nên giờ không cần phải ra tòa khai thêm lần nữa vì mất thời gian, ảnh hưởng tới công việc. Nhiều người trong số họ còn không biết mình phải có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập. Lạng Sơn là tỉnh miền núi, khó khăn trong việc đi lại, dân cư chủ yếu làm nông nghiệp nên triệu tập người làm chứng là việc làm khó khăn, việc dẫn giải người làm chứng cũng không phải là việc làm dễ dàng nên các vụ án mà người làm chứng vắng mặt, Tòa vẫn tiến hành xét xử dựa trên những lời khai trước đó của người làm chứng tại cơ quan điều tra. Điều này đã vi phạm nguyên tắc “khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa” (Khoản 3 Điều 222 BLTTHS năm 2003). Thái độ thờ ơ này không những gây ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật mà còn ảnh hưởng tới quyền bào chữa của bị can, bị cáo.

- Về việc thực hiện nghĩa vụ khai báo của người làm chứng

Khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đa phần người làm chứng đều tích cực hợp tác trong việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tình trạng người làm chứng có thái độ bất hợp tác hoặc hợp tác không tích cực. Tình trạng này thường thấy trong các vụ án mà người làm chứng có mối quan hệ họ hàng, quen biết, quan hệ công việc với bị can, bị cáo, người bị hại hoặc do người làm chứng bị tác động như trả thù, đe dọa, mua chuộc. Do đó, người làm chứng thường không có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập, khai báo một cách qua loa, không đầy đủ, không đúng những gì mình biết về vụ án. Trong một vụ tai nạn giao thông xảy ra tại quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh những người làm chứng ban đầu đã khai báo đúng sự thật khách quan của vụ án nhưng sau đó tại phiên tòa phúc thẩm do bị gia đình người gây tai nạn mua chuộc nên một số người làm chứng đã vắng mặt tại phiên tòa, một số khác lại khai báo khác hẳn so với phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã phải quyết định hoãn phiên tòa. Điều này đã gây khó khăn trong việc làm sáng tỏ vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải điều tra, xác minh lại những tình tiết đó, kéo dài thời gian giải quyết vụ án và ảnh hưởng tới công việc của những người liên quan (người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người giám định, người phiên dịch, Hội thẩm nhân dân...), gây tốn kém về kinh phí.

3.1.1.2. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm các quyền hợp pháp của người làm chứng trong tố tụng hình sự

- Về bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp cho người làm chứng

Từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến nay, những quy định về bảo vệ người làm chứng trong vụ án hình sự không những chưa được hướng dẫn chi tiết, mà trên thực tế vẫn chưa được triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, mặc dù trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự đã xuất hiện rất nhiều tình huống cần phải áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ người làm chứng và người thân thích của họ.

Các cơ quan tiến hành tố tụng đều biết mình có trách nhiệm phải bảo vệ những người này khỏi sự đe doạ hoặc xâm hại từ phía người phạm tội hoặc thân nhân của họ, nhưng do chưa có những quy định cụ thể về trách nhiệm, thủ tục, biện pháp và cơ sở vật chất, lực lượng tiến hành bảo vệ, kinh phí phục vụ cho công tác này, nên còn lúng túng trong việc quyết định và triển khai các biện pháp bảo vệ. Luật cũng như chưa có quy định trong những trường hợp cụ thể nào thì người làm chứng cũng như người thân thích của họ được bảo vệ như trong quy định tại khoản 5 Điều 211 BLTTHS năm 2003 “Trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người thân của họ, Hội đồng xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Trường hợp bản thân họ từ chối bảo vệ hoặc vi phạm thoả thuận được bảo vệ thì xử lý ra sao? Do vậy, trong quá trình điều tra, nếu cơ quan điều tra tự xét thấy người làm chứng thực tế bị đe dọa thì tùy theo khả năng của mình mà áp dụng một số biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn như tiến hành tổ chức bảo vệ, truy tìm kẻ đe dọa… Trường hợp đã có hành vi trả thù thì tiến hành xem xét, khởi tố vụ án. Nghiên cứu, tìm hiểu tại Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các đơn vị chuyên trách của Bộ Công an về vấn đề này, cho đến nay chưa có cơ quan, đơn vị chức năng nào tổ chức một cách chủ động, bài bản việc bảo vệ người làm chứng trong vụ án hình sự theo như quy định của pháp luật, đặc biệt là áp dụng các biện pháp “tốn kém” như tổ chức lực lượng bảo vệ thường xuyên, thay đổi nhân dạng, thay đổi chỗ ở, cho xuất cảnh và tạo các điều kiện cần thiết để ổn định cuộc sống mới. Một số ít trường hợp xét thấy nguy cơ thực tế xâm hại có thể xảy ra đối với nhân chứng, thì Toà án không cho mời nhân chứng tham gia phiên toà, và khi công bố lời khai, Toà án không nêu tên, họ của nhân chứng mà chỉ nêu nội dung lời khai, các tình tiết của vụ án, ngày giờ cơ quan điều tra lấy lời khai, số bút lục trong hồ sơ… nhằm bảo vệ người làm chứng khỏi sự trả thù của người phạm tội hoặc thân nhân của họ.

Gần đây, dư luận đang quan tâm việc hai nhân chứng quan trọng trong vụ án chó bécgiê cắn người ở Đắk Lắk là chị Nguyễn Thị Thanh Trâm và Giang Thị Bích Điệp từ chối có mặt theo giấy triệu tập của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột với lý do đưa ra là sợ nguy hiểm đến tính mạng, Chị Trâm và chị Điệp đã đưa ra được những cơ sở cho thấy việc làm chứng có thể đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của bản thân, do đó căn cứ vào điểm a khoản 3 điều 55 BLTTHS, hai chị có quyền yêu cầu Viện Kiểm sát bảo vệ mình khi tham gia quá trình cung cấp lời khai. Tuy nhiên, đến nay ngoài việc gửi giấy triệu tập, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột chưa đưa ra bất kỳ biện pháp cụ thể nào để đảm bảo tính mạng, sức khỏe cho các nhân chứng. Qua trường hợp cụ thể nêu trên, có thể thấy tính khả thi của pháp luật trong nhiều trường hợp vẫn còn rất thấp. Nói cách khác, giữa quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng còn khoảng cách rất lớn.

- Về việc giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của người làm chứng

BLTTHS năm 2003 quy định cho người làm chứng có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhưng rất ít người làm chứng thực hiện quyền được khiếu nại này của mình, ít có trường hợp nào người làm chứng khiếu nại hành vi của điều tra viên hay thẩm phán đã quên không giải thích quyền và nghĩa vụ cho họ hoặc giải thích không đầy đủ, không chính xác. Vì có khiếu nại thì cũng không nhận được sự trả lời từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, nếu có thì rất lâu, chung chung và không có hiệu quả.

- Việc thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật cho người làm chứng

Do nhận thức chưa thống nhất nên hiện nay mới chỉ có Tòa án trả chi phí đi lại, ăn ở cho người làm chứng, còn Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát ở một số tỉnh chưa thanh toán chi phí cho người làm chứng. Người làm chứng được thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác nhưng những khoản thanh toán này thường không theo kịp giá cả thị trường hoặc không kịp thời. Trong thực tế việc thanh toán chỉ thực hiện trong các vụ án lớn (chủ yếu là chi phí đi lại, ăn ở, lưu trú). Các chi phí khác thì không thanh toán dù đã được pháp luật ghi nhận người làm chứng có quyền đề nghị cơ quan triệu tập thanh toán “các chi phí khác theo quy định của pháp luật”.

3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng

Nguyên nhân do sự hạn chế về pháp luật

Nguyên nhân của thực trạng trên một phần do pháp luật hiện hành chưa thực sự bảo vệ được quyền lợi cho người làm chứng. Hiện nay đã có những quy định về bảo vệ người làm chứng trong vụ án hình sự nhưng những quy định này còn quá chung chung, chỉ mang tính nguyên tắc, chưa ràng buộc trách nhiệm cụ thể của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ, nên việc triển khai thực hiện của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan phối hợp còn lúng túng, không có sự thống nhất, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có đủ điều kiện thực hiện quyền lợi cho người làm chứng.

Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về khiếu nại, tố cáo tại chương XXXV và cũng đã có Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 10/8/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS về khiếu nại tố cáo nhưng không có quy định cụ thể liên quan đến quyền khiếu nại của người làm chứng mà cũng chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục… Thực tiễn thi hành luật cho thấy những quy định này còn chưa đầy đủ, thiếu cụ thể, một số quy định mới chỉ dừng lại lại ở nguyên tắc chung nên tính khả thi thấp. Luật không có cơ chế bảo đảm cho họ quyền được yêu cầu khôi phục danh dự, quyền lợi, bồi thường thiệt hại khi việc khiếu nại là đúng.

Việc thanh toán chi phí đí lại và các chi phí khác theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 55 BLTTHS 2003 cho người làm chứng, hiện nay vẫn chưa có một văn bản hướng dẫn thống nhất quy định này. Trong thực tiễn điều tra một số cơ quan điều tra thanh toán chi phí cho người làm chứng theo quy định về quản lý và sử dụng kinh phí điều tra trong lực lượng Công an nhân dân của Bộ Công an số 1443/2008/QĐ - BCA (VV2) ngày 28/8/2008, theo quy định này cơ quan điều tra “Chi tiền tàu xe, thuê nơi nghỉ trọ, tiền ăn hàng ngày cho người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm, người có quyền lợi liên quan trong những ngày CQĐT có yêu cầu làm việc thì được hỗ trợ tiền ăn (không quá 50.000đ/ngày/người) trong những ngày CQĐT yêu cầu làm chứng, thanh toán tiền vé tàu xe, thuê nhà trọ (nếu có) theo hóa đơn (hoặc giấy biên nhận); nếu người làm chứng, người bị hại ở nơi xa đến mức thanh toán tiền thuê nhà trọ được vận dụng thực hiện như quy định hiện hành của Bộ Công An đối với cán bộ, chiến sỹ đi công tác trong nước. Trường hợp tự túc phương tiện thì thanh toán tiền tàu xe theo giá cước thông thường của phương tiện vận tải hành khách trên đoạn đường đó”. Trong trường hợp gia đình hay bản thân họ khó khăn về kinh tế, hoặc cơ quan đơn vị của họ không trả lương thì được xét cấp tiền ăn trong những ngày cơ quan điều tra yêu cầu làm chứng. Ngoài ra trong một số trường hợp đặc biệt cơ quan điều tra còn có thể quyết định chi khen thưởng đối với những người làm chứng có công trực tiếp phát hiện, bắt, dẫn giải bọn tội phạm, phát hiện thu hồi vật chứng quan trọng của vụ án. Theo quyết định 241/2006/QĐ – TT​g ngày 25/10/2006 của Thủ Tướng Chính phủ quy định về chế độ bồi dưỡng phiên tòa và thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT/TANDTC – VKSNDTC – BNV – BTC – BCA – BQP – BTP ngày 31/01/2007 hướng dẫn thực hiện quyết định 241/2006/QĐ – TTg ngày 25/10/2006 thì người làm chứng khi được triệu tập ra tòa sẽ được chi trả 30.000đ/người/ngày xét xử. Luật chưa có cơ chế khuyến khích người làm chứng tích cực khai báo, có công lớn trong phát hiện và xử lý tội phạm, cũng như chế tài xử lý thỏa đáng với từng mức độ hậu quả do việc người làm chứng không khai báo hoặc khai báo gian dối.

Những người tiến hành tố tụng không thực hiện hết trách nhiệm giải thích về những quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng biết khi tham gia tố tụng (Điều 62, Điều 204 BLTTHS năm 2003). Theo định nghĩa của Từ điển giải thích thuật ngữ luật học NXB Công an nhân dân 1999 thì thuật ngữ “giải thích pháp luật” là nhằm mục đích làm rõ, phân tích tinh thần, nội dung của điều luật, thậm chí giải nghĩa thuật ngữ cho đúng trong văn bản pháp luật, nếu thấy cần thiết, để bảo đảm cho người làm chứng hiểu đúng, hiểu một cách thống nhất quy định của luật về quyền và nghĩa vụ của mình từ đó để thực hiện cho đúng. Do không hiểu hết được những quyền của mình nên nhiều người làm chứng đã không yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện những quyền hợp pháp cho mình.

Nguyên nhân khác

Ngoài nguyên nhân về mặt pháp luật còn phải kể đến nguyên nhân khác nữa đó là do phản ứng đe doạ, trả thù của người phạm tội ở nước ta, nhất là người phạm tội có tổ chức chưa đến mức cực đoan, nghiêm trọng như nhiều nước khác. Người làm chứng chưa hiểu rõ về nghĩa vụ của mình trong đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như chưa hiểu rõ quyền được bảo vệ của mình, và còn thiếu tin tưởng vào các cơ quan tiến hành tố tụng, cho nên đã lo sợ, không dám hợp tác, hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án hình sự.

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người làm chứng trong tố tụng hình sự

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật

Lý do chủ yếu dẫn đến sự e ngại, bất hợp tác, hợp tác không tích cực của người làm chứng với các cơ quan có thẩm quyền không chỉ xuất phát từ chủ quan của người làm chứng, mà trước hết là do những thiếu sót, bất cập của chế định pháp lý hiện hành về bảo vệ quyền con người mà cụ thể là của người làm chứng trong tố tụng hình sự.

Việc tiếp tục hoàn thiện chế định người làm chứng trong BLTTHS theo hướng bảo đảm hơn nữa quyền của người làm chứng cũng là một sự thể hiện quyết tâm thực hiện yêu cầu của Nghị quyết 49 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến 2020 trong đó nêu rõ định hướng khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm, không để xảy ra oan sai, tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

3.2.1.1. Định hướng hoàn thiện BLTTHS nhằm đảm bảo hơn nữa quyền của người làm chứng trong hoạt động tố tụng hình sự

Để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, bảo đảm hơn nữa quyền của người làm chứng, Bộ luật tố tụng hình sự cần định hướng vào các vấn đề sau:

* Lấy xuất phát điểm của việc bảo đảm quyền của người làm chứng trong tố tụng hình sự là dựa trên những nguyên tắc đã được thừa nhận về mặt quốc tế như quyền được sống, quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân, quyền bình đằng trước pháp luật, bình đẳng trước tòa án và quyền được pháp luật bảo vệ. BLTTHS cần có sự mở rộng hơn nữa quyền của người làm chứng trên cơ sở các nguyên tắc hiến định như:

- Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản ...

- Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của người làm chứng trong tố tụng hình sự nói riêng là nhiệm vụ chung của cả hệ thống pháp luật của nước ta. Vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản do đó việc nâng cao vai trò của hiến pháp đối với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân (trong đó có người làm chứng) cần được đẩy mạnh dựa trên quan điểm của đảng và Nhà nước ta quan tâm tới mọi mặt đời sống của con người.

* Việc bổ sung những quy định về bảo đảm quyền con người trong đó có quyền của người làm chứng trong Bộ luật tố tụng hình sự phải tuân theo các mục tiêu sau:

- Phản ánh được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo đúng mục tiêu coi con người và lợi ích của con người luôn là trọng tâm của mọi chính sách và pháp luật.

- Trong tố tụng hình sự phải coi trọng và xác định đúng vị trí, vai trò của người làm chứng trong công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm và nhiệm vụ của BLTTHS phải đảm bảo cho người làm chứng phát huy quyền làm chủ và bảo đảm các quyền tự do.

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng lấy con người và lợi ích của con người là trung tâm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và mở rộng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Phát triển hệ thống pháp luật bao gồm các quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân bao gồm: các quy phạm hiến pháp và các quy phạm luật thường. Các quy phạm luật và các quy phạm dưới luật phải được ban hành phù hợp với quy phạm hiến pháp về quyền con người, quyền công dân.

- Để đảm bảo quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phầm của người được triệu tập làm chứng trong vụ án hình sự, cần có chương trình bảo vệ nhân chứng cả sau quá trình tố tụng đối với cả những người thân thích của họ.

* Cần có cơ chế bảo đảm các quyền của người làm chứng theo hướng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng, phải bằng mọi biện pháp đảm bảo cho người làm chứng thực hiện các quyền luật định của mình một cách có hiệu quả.

3.2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo hơn nữa quyền của người làm chứng trong hoạt động tố tụng hình sự

* Trong việc bảo vệ người làm chứng tránh khỏi sự trả thù của đối tượng, người viết đồng tình với việc cần phải xây dựng đạo luật về bảo vệ người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm của PGS. TS Trần Đình Nhã – Phó chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc Hội. Đạo luật sẽ tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thống nhất, biện pháp bảo vệ, quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan cũng như các chế tài xử phạt thích đáng trong công cuộc bảo vệ đó. Theo chương trình xây dựng pháp luật thì Luật về bảo vệ nhân chứng đang được tiến hành soạn thảo, cơ quan chủ trì việc soạn thảo là Bộ Công an. Trước đó Bộ Công an cũng đã được giao chủ trì soạn thảo thông tư liên tịch Hướng dẫn bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án hình sự. Nhưng cho đến thời điểm hiện tại các văn bản này vẫn chưa được hoàn thiện, thông qua để áp dụng bảo vệ người làm chứng mặc dù việc soạn thảo đã được tiến hành từ năm 2005. Một trong những nguyên nhân dẫn đến chưa thể có văn bản hướng dẫn cụ thể do những khó khăn nhất định về kinh phí, các biện pháp bảo vệ như thay đổi nơi ở, nơi làm việc kèm theo biện pháp giữ bí mật thông tin cá nhân cần phải có sự đồng ý của người làm chứng. Ngoài ra việc áp dụng các biện pháp bảo vệ này còn vẫn phải đảm bảo được quyền của người bị buộc tội, không vi phạm các nguyên tắc khác trong tố tụng. Chính vì có những khó khăn nhất định như vậy nên hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn chính thức để thực hiện việc bảo vệ người làm chứng.

* Trước mắt, khi chưa xây dựng được Luật bảo vệ nhân chứng để người làm chứng hoàn toàn có thể yên tâm khi tham gia làm chứng trong các vụ án hình sự, cần phải có những sửa đổi bổ sung nhất định trong BLTTHS, những sửa đổi bổ sung này là:

- Về quy định trong phần Những nguyên tắc cơ bản tại chương II của BLTTHS: Nguyên tắc xét xử công khai có thể có ngoại lệ xử kín. Việc quy định có thể xét xử kín nếu việc xét xử công khai gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe… của người làm chứng sẽ đảm bảo được sự có mặt và hợp tác tích cực của họ đồng thời vẫn đảm bảo việc thẩm tra các thông tin tình tiết về vụ án do người làm chứng cung cấp một cách trực tiếp thông qua hoạt động động xét hỏi đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo và người bào chữa thực hiện được việc bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho bị cáo.

Điều 18. Xét xử công khai

Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.

Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, hoặc trường hợp cần bảo vệ an toàn, để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án có thể xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.

- Bổ sung quy định về quyền của người làm chứng

Trên thực tế người làm chứng có thể bị đe doạ thông qua nhiều cách thức khác nhau trong đó có việc sử dụng điện thoại. Vì vậy, có thể thực hiện việc ghi âm khi có yêu cầu để một mặt khẳng định việc đe doạ là có thật, mặt khác có thể căn cứ vào đó để ngăn chặn kịp thời những nguy hiểm thực sự có thể xảy ra. Quy định về quyền miễn trừ làm chứng cho phù hợp với xu hướng quốc tế và truyền thống dân tộc.

Điều 55. Người làm chứng

3. Người làm chứng có quyền: a)…b)…c)…

d) Yêu cầu cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ghi âm các cuộc điện thoại liên lạc trong trường hợp cần xác nhận có sự đe doạ hoặc hoạt động khác gây nguy hại;

e) Miễn trừ làm chứng nếu việc làm chứng đó gây bất lợi cho bản thân.

Bên cạnh đó cũng cần bổ sung quy định quyền và nghĩa vụ của người đại diện hợp pháp đối với người làm chứng dưới 16 tuổi khi tham gia tố tụng.

Điều 55. Người làm chứng

5. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện hợp pháp với người làm chứng dưới 16 tuổi

a) Được thanh toán chi phí đi lại và các chi phí khác theo quy định của pháp luật trong thời gian giám hộ;

b) Có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng nếu có hành vi xâm phạm quyền trẻ em;

 

c) Chịu trách nhiệm nếu có hành vi xúi giục gây ảnh hưởng để người làm chứng khai báo không đúng sự thật hoặc từ chối khai báo.

- Bổ sung nội dung trong phần quy định của BLTTHS về các hoạt động điều tra

- Trong trường hợp người làm chứng có yêu cầu do lo ngại bị nguy hiểm về tính mạng, sức khoẻ thì biên bản về hoạt động lấy lời khai có thể không ghi rõ những thông tin về nhân thân của họ. Mặc dù có quy định về việc giữ bí mật điều tra tại Điều 124 BLTTHS nhưng chưa đủ để bảo vệ người làm chứng nếu những thông tin này bị lộ nằm ngoài sự kiểm soát của cơ quan điều tra. Vì vậy có thể bổ sung quy định tại Điều 125 (Biên bản hoạt động điều tra) như sau: “Cơ quan điều tra quyết định về việc không ghi những thông tin về cá nhân của người làm chứng, quyết định phải được Viện kiểm sát phê chuẩn. Trong trường hợp này việc lấy lời khai người làm chứng phải có mặt Kiểm sát viên.”

- Về thủ tục xét hỏi tại phiên toà.

Nếu phiên toà được tiến hành xét xử công khai, trong trường hợp cần thiết để đảm bảo an toàn cho người làm có thể tiến hành theo cách thức để những người tham gia tố tụng và những người tham dự phiên toà không nhìn thấy họ. Có thể sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật nghe nhìn để hỗ trợ. Như vậy vẫn đảm bảo được không vi phạm nguyên tắc xét xử trực tiếp bằng lời nói, đồng thời bảo đảm được quyền của bị cáo cũng như an toàn cho người cung cấp lời khai.

Nội dung này nên quy định tại Điều 211. Hỏi người làm chứng.

1…..

5. Trong trường hợp cần thiết để bảo đảm an toàn cho người làm chứng và những người thân của họ, Hội đồng xét xử quyết định lấy lời khai của họ với sự hỗ trợ thông qua các phương tiện nghe nhìn phù hợp.

* Cần có sự quy định đồng bộ giữa BLTTHS và các đạo luật khác (Luật lao động, Luật cán bộ công chức...) để đảm bảo quyền, nghĩa vụ của người làm chứng khi tham gia tố tụng hình sự.

3.2.2. Một số giải pháp khác

- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới mọi người dân

Tâm lý mọi người khi ra làm chứng là sợ bị trả thù, ngại phiền phức khi phải mang việc vào thân... vì vậy cần phải cho người mọi dân thấy rõ đi làm chứng vừa là nghĩa vụ của công dân với Nhà nước, và là trách nhiệm với cộng đồng, công lý. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, giải thích và giáo dục các quy phạm Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự về quyền con người nói chung và quyền của người làm chứng nói riêng để mọi người nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò, trách nhiệm cũng như quyền lợi của mình. Các chế tài quy định tại khoản 4 Điều 55 chỉ là biện pháp cuối cùng, những người tiến hành tố tụng trước hết nên có biện pháp tác động tâm lý giúp người làm chứng hiểu được vai trò của mình cũng như khả năng bảo vệ của cơ quan tiến hành tố tụng. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong cộng đồng dân cư, các cơ quan đoàn thể và nhất là trong nhà trường.

- Hợp tác quốc tế:

Cần phải nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm của các nước đối với việc bảo đảm quyền của người làm chứng để kịp thời sửa đổi bổ sung BLTTHS cho phù hợp với tình hình mới.

KẾT LUẬN CHƯƠNG III

Trong những năm qua, việc thi hành BLTTHS 2003 đã góp phần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vai trò và vị trí của nó không thể phủ nhận trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Trong đó các quy định của bộ luật về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng đã phần nào được thực thi bảo đảm quyền con người của người làm chứng trong tố tụng hình sự đồng thời cũng bảo đảm quyền được bào chữa của bị can, bị cáo, đáp ứng yêu cầu không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan người vô tội. Tuy nhiên thực tế áp dụng các quy định này còn gặp nhiều vướng mắc, khó khăn. Địa vị pháp lý người làm chứng chưa được thực hiện đúng với quy định trong luật.

Vì vậy, vấn đề cấp thiết hiện nay là hoàn thiện BLTTHS 2003 về địa vị pháp lý của người làm chứng nhằm đảm bảo hơn nữa quyền con người trong tố tụng hình sự, tránh oan sai và đảm bảo sự công bằng khách quan đối với việc giải quyết các vụ án hình sự.

KẾT LUẬN

Người làm chứng là một chủ thể của chức năng hỗ trợ tư pháp trong TTHS, có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án. Qua nghiên cứu địa vị pháp lý người làm chứng hiện nay người viết đưa ra một số kết luận sau:

Sự tham gia của người làm chứng là một trong những phương thức giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, không làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. Đảm bảo tính dân chủ, khách quan, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng niềm tin của nhân dân vào pháp luật.

Tuy nhiên, so với các chủ thể khác trong tố tụng hình sự người làm chứng phải chịu áp lực nặng nề từ phía pháp luật và nhất là từ phía đối tượng. Pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể và cơ chế đảm bảo thực hiện quyền lợi cho người làm chứng. Do vậy thường dẫn đến tâm lý ngại hợp tác với các cơ quan tố tụng.

Nhà nước ta cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý người làm chứng, tạo cơ sở đảm bảo thực hiện các quyền con người cũng như thực hiện nghĩa vụ cho người làm chứng. Bên cạnh đó cũng cần thực hiện một số giải pháp khác nhằm hoàn thiện hơn chế định người làm chứng. Hoàn thiện chế định người làm chứng sẽ góp phần tích cực vào công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin 1999;

2.Đinh Thế Anh, Học viện cảnh sát nhân dân “Một số vấn đề cần chú ý về tâm lý xã hội của người làm chứng”, Tạp chí Kiếm sát số 7 (4/2008);

3.PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số 18 & 20 (tháng 9 & 10/ 2008);

4.Nguyễn Thu Quỳ, Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC “Về người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Đức” (Nguồn http://www.vksndtc.gov.vn/theloai/khoahocks/7.aspx);

5.Phạm Chung (Đại học Đà Lạt), Đề tài khoa học cấp trường 2010 “Cơ sở pháp lý bảo vệ người làm chứng” ( http://danluat.thuvienphapluat.vn/co-so-phap-ly-bao-ve-nguoi-lam-chung-de-tai-khoa-hoc-cap-truong-dh-da-lat-42373.aspx#90558);

6.LS.TS Phan Thị Hương Thúy “Bảo đảm quyền của người làm chứng trong BLTTHS” (http://luathinhsu.wordpress.com/2010/10/07/bao-dam-quyen-cua-nguoi-lam-chung-trong-bltths/);

7.PGS.TS Trần Đình Nhã - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự” (http:www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/hanh-chinh-hinh-su-tu-phap/hoan-thien-co-so-phap-ly-ve-bao-ve-nguoi-to-giac-nguoi-lam-chung-nguoi-bi-hai-trong-vu-an-hinh-su-1);

8.Trần Quang Tiệp. TS Tổng cục An ninh, Bộ Công an “Về lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự” (http://www.luatvadoanhnhan.com/law_club.php?&id=53);

9.Trường Đại học luật Hà Nội “giáo trình Khoa học điều tra hình sự”, NXB Công an nhân dân - Hà Nội 2008;

10.Trường Đại học luật Hà Nội “giáo trình luật tố tụng hình sự”, NXB Tư pháp - Hà Nội 2006;

11.Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Công an nhân dân 1999;

12.Võ Khánh Vinh “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”, NXB Công an nhân dân 2004;

13.Bộ luật hình sự năm 1999;

 

Tiểu luận luật tố tụng hành chính - Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người làm chứng

Tác giả
Tạp chí
Năm xuất bản 0
Tham khảo

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ