Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHỦ NỢ THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014

ThS. NGUYỄN THỊ AN  - Đại học Tài chính kế toán Quảng Ngãi

Trong quá trình giải quyết phá sản đối với một doanh nghiệp, chủ thể có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất là các chủ nợ. Do đó, việc xác định đúng địa vị pháp của chủ nợ trong các quy định pháp luật về phá sản là vô cùng quan trọng. Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phá sản ở Việt Nam, địa vị pháp lý của chủ nợ cũng được quan tâm và có nhiều thay đổi cho phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội cũng như hài hòa lợi ích của doanh nghiệp và chủ nợ. Luật Phá sản năm 2014 đã có những quy định thể hiện địa vị pháp lý của chủ nợ trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp. Cụ thể:

Thứ nhất, Điều 5 Luật Phá sản năm 2014 quy định: Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Như vậy, so với Luật Phá sản năm 2004, Luật Phá sản năm 2014 cũng quy định chỉ có chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quy định này là phù hợp nhằm bảo đảm lợi ích cho chính chủ nợ cũng như sự công bằng với chính doanh nghiệp mắc nợ. Trên thực tế, có nhiều trường hợp chủ nợ có bảo đảm toàn bộ có thể chuyển thành chủ nợ có bảo đảm một phần hoặc chủ nợ không có bảo đảm khi giá trị tài sản bảo đảm bị giảm sút do biến động của thị trường hoặc hao mòn, hư hỏng trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên, để có thể chuyển đổi từ chủ nợ có bảo đảm toàn bộ sang chủ nợ có bảo đảm một phần hoặc chủ nợ không có bảo đảm, thì phải có sự thỏa thuận giữa chủ nợ và con nợ về việc định giá lại giá trị tài sản bảo đảm, nếu đạt được thỏa thuận này chủ nợ có bảo đảm sẽ chuyển thành chủ nợ có bảo đảm một phần hoặc chủ nợ không có bảo đảm và có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trên thực tế trường hợp này rất ít xảy ra do việc thỏa thuận khó có thể đạt được khi thỏa thuận đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của con nợ (doanh nghiệp mắc nợ). Vì vậy, trong quá trình định giá giá trị tài sản bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm toàn bộ cần định giá chính xác, khách quan và lưu ý yếu tố phòng ngừa rủi ro đối với tài sản bảo đảm.

 Luật Phá sản năm 2014 cũng quy định thời gian chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là khi hết thời hạn ba tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Quy định này mặc dù kéo dài thời gian nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ song cũng là cơ hội để hai bên thỏa thuận, đàm phán nhằm tìm ra phương án tốt hơn cho việc giải quyết các khoản nợ mà không nhất thiết phải thông qua thủ tục phá sản doanh nghiệp. Đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thời gian giải quyết khó khăn, tránh áp lực nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía chủ nợ, cũng như giúp chủ nợ có cơ hội bảo toàn và thu hồi trọn vẹn khoản nợ từ con nợ. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ không phụ thuộc giới hạn các khoản nợ, điều này có thể hiểu là khi trở thành chủ nợ của bất kỳ khoản nợ nào, số lượng nợ là bao nhiêu, thì chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Với quy định này, quyền của chủ nợ được đảm bảo tối đa, chủ nợ không cần chứng minh quy trình đòi nợ trước đó, cũng không cần phải xác định số lượng nợ nhiều hay ít đều có quyền khởi kiện, điều này tác động trực tiếp đến các con nợ là phải giải quyết tất cả các khoản nợ nếu không muốn bị rơi vào nguy cơ tuyên bố phá sản.

Thứ hai, Luật Phá sản năm 2014 phân biệt rõ chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm toàn bộ và chủ nợ có bảo đảm một phần. Các chủ nợ khác nhau thì có địa vị pháp lý khác nhau trên tinh thần bảo vệ quyền lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn so với các loại chủ nợ khác. Mặc dù Luật Phá sản năm 2014 đã có sự điều chỉnh về thứ tự ưu tiên thanh toán khi giải quyết phá sản doanh nghiệp, theo đó chủ nợ có bảo đảm toàn bộ và chủ nợ có bảo đảm một phần đều có có cùng thứ tự thanh toán với chủ nợ không bảo đảm đối với khoản nợ chưa được thanh toán, nghĩa là trong trường hợp giá trị tài sản bảo đảm tại thời điểm thanh toán bị giảm so với giá trị định giá ban đầu nên không đủ để thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ có bảo đảm thì phần giá trị chưa được thanh toán sẽ được thanh toán cùng thứ tự với các khoản nợ của chủ nợ không có bảo đảm. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 quy định chưa rõ ràng về vấn đề này, cụ thể:  Điều 41 quy định trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân thụ lý vụ việc phá sản, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các chủ nợ có bảo đảm; Điều 48 quy định sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động như: Thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã quy định. Quy định trên cho thấy, việc xử lý tài sản bảo đảm đối với chủ nợ có bảo đảm toàn bộ bị nghiêm cấm ngay từ thời điểm Tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ án, song việc thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ không có bảo đảm chỉ bị nghiêm cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Những quy định trên chưa bảo vệ được lợi ích của các chủ nợ có bảo đảm - chủ thể đáng được bảo vệ triệt để hơn khi giải quyết phá sản doanh nghiệp. Vì trên thực tế, dù doanh nghiệp có bị tuyên bố phá sản hay không thì tài sản bảo đảm vẫn thuộc quyền xử lý của chủ nợ có bảo đảm khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn theo sự thỏa thuận của các bên.

Thứ ba, Điều 47 Luật Phá sản năm 2014 quy định: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của thẩm phán và quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp vẫn được tiếp tục ký kết các hợp đồng và thiết lập các mối quan hệ mới, như vậy việc xuất hiện các chủ nợ sau khi tòa án tuyên bố mở thủ thục phá sản là điều không tránh khỏi. Những chủ nợ xuất hiện sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản được gọi chung là “chủ nợ mới”. Đây thực ra là những chủ nợ xuất hiện trong quá trình nỗ lực phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. So với Luật Phá sản năm 2004, thì Luật Phá sản năm 2014 đã có một số quy định nhằm bảo đảm lợi ích cho “chủ nợ mới” trong thứ tự ưu tiên thanh toán khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản (Điều 54). Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 quy định chưa rõ ràng về địa vị pháp lý của những “chủ nợ mới” cũng như chưa có cơ chế phù hợp trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp để khuyến khích các đối tác tham gia vào hoạt động phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cụ thể: Theo quy định  tại Điều 68 Luật Phá sản thì, trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, danh sách người mắc nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án nhân dân tiến hành thủ tục phá sản, trụ sở chính của doanh nghiệp, hợp tác xã và phải gửi cho người mắc nợ trong 10 ngày làm việc kể từ ngày niêm yết. Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày kết thúc thời hạn niêm yết, người mắc nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có quyền đề nghị thẩm phán xem xét lại danh sách người mắc nợ. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị xem xét lại, thẩm phán phải xem xét, giải quyết đề nghị, nếu thấy đề nghị có căn cứ thì sửa đổi, bổ sung vào danh sách người mắc nợ. Như vậy, thời điểm quyết định danh sách chủ nợ cuối cùng là 53 ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản. Nhưng theo quy định của Luật Phá sản năm 2014, thì hoạt động của doanh nghiệp vẫn tiếp tục đến khi có quyết định tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản doanh nghiệp của Tòa án có thẩm quyền. Với quy định này, thì những “chủ nợ mới” có thể không có tên trong danh sách chủ nợ và không được thanh toán các khoản nợ khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Bởi vì, theo quy định của Luật Phá sản thì muốn được thanh toán các khoản nợ khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản các chủ nợ phải có tên trong danh sách chủ nợ đã được Tòa án có thẩm quyền niêm yết. Những quy định trên vô tình đã đưa những phương án phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ mang tính chất hình thức và không có tính khả thi vì nó hạn chế sự tham gia của các đối tác kinh doanh vào quá trình này.

Tóm lại, việc xác định địa vị pháp lý của chủ nợ trong quá trình giải quyết vụ án phá sản là vô cùng quan trọng, không chỉ thể hiện đúng tinh thần và vai trò của pháp luật phá sản là để bảo vệ lợi ích của của các chủ nợ, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, thiết lập trật tự kinh doanh trên thương trường, mà việc xác định đúng vị trí pháp lý của các chủ nợ còn quyết định đến sự tồn tại hay không của chính các doanh nghiệp đang tham gia vào nền kinh tế. Mặc dù, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng đối với mọi đất nước, nhưng doanh nghiệp chỉ phát triển bền vững  trên cơ sở dung hòa lợi ích giữa các nhóm chủ thể trong xã hội. Đồng thời, việc loại bỏ những doanh nghiệp kém phát triển, kinh doanh không hiệu quả cũng là vấn đề vô cùng cần thiết để làm trong sạch môi trường đầu tư. Trên thực tế, trong các mối quan hệ kinh tế rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh và phát triển trên cơ sở dung hòa lợi ích các bên nhưng cũng không ít doanh nghiệp dựa vào quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp để trốn tránh các nghĩa vụ tài sản đối với các chủ thể khác. Việc quy định rõ ràng địa vị pháp lý của các chủ nợ trong mối quan hệ này giúp các chủ nợ mạnh dạn hơn trong đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, đồng thời là cơ chế ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh và khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHỦ NỢ THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014

Tác giả NGUYỄN THỊ AN
Tạp chí TẠP CHÍ DÂN CHỦ & PHÁP LUẬT ĐIỆN TỬ
Năm xuất bản 2016
Tham khảo
http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-te.aspx?ItemID=158

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ