Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

NGĂN NGỪA TRỤC LỢI BẢO HIỂM BẰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ, GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC

ThS. NGUYỄN THỊ HOÀI THU - Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính

Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố tình gian dối, lừa đảo có thể có chủ ý ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh sau khi xảy ra rủi ro cho đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ doanh nghiệp bảo hiểm mà đáng lẽ ra họ không được hưởng. Đây là sự gian lận trong bảo hiểm và là vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Trên thế giới, việc phòng chống trục lợi bảo hiểm được các doanh nghiệp bảo hiểm hết sức coi trọng. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã thành lập các đội, ban phòng chống trục lợi bảo hiểm của riêng mình. Ở Việt Nam thời gian qua, những sai phạm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là hành vi trục lợi bảo hiểm. Để đảm bảo thị trường phát triển ổn định và bền vững, thì việc đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát hoạt động bảo hiểm là việc làm cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Trong bài viết này, tác giả đưa ra và phân tích những quy định về cấp phép thành lập và hoạt động doanh nghiệp bảo hiểm; về quản lý, giám sát sản phẩm bảo hiểm; quản lý kênh trung gian bảo hiểm; phương thức giám sát; trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể thực hiện hành vi trục lợi.

Những năm qua, trong sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đã xuất hiện tình trạng trục lợi bảo hiểm (TLBH), gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm, đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm nước ta. Trong công tác ngăn ngừa TLBH, hoạt động quản lý, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đóng vai trò quan trọng, nhằm đảm bảo cho các chủ thể liên quan thực hiện hành vi một cách có trách nhiệm, tuân thủ quy định của pháp luật.

Với mục đích nhằm ngăn ngừa TLBH, cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các nội dung giám sát của mình thông qua việc ban hành các quy định như: Cấp phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; quản lý, giám sát sản phẩm bảo hiểm; quản lý, giám sát kênh trung gian bảo hiểm. Các nội dung này được cơ quan nhà nước thực hiện bằng phương thức giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ cũng như thực hiện thẩm quyền của mình trong việc áp dụng các chế tài đối với chủ thể vi phạm.

1. Quy định về cấp phép thành lập và hoạt động doanh nghiệp bảo hiểm

Là lĩnh vực kinh doanh có ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội, thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện, như các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam cũng yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải được cấp giấy phép thành lập và hoạt động trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Mục đích nhằm đảm bảo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý, giám sát trước và sau khi cấp phép, tránh tình trạng cấp phép với điều kiện dễ dàng, lỏng lẻo để rồi kết quả là thành lập ra các doanh nghiệp bảo hiểm yếu kém, doanh nghiệp “ma” mà mục đích chủ yếu là TLBH đối với người tham gia bảo hiểm. Với mục đích đó, pháp luật kinh doanh bảo hiểm đã đưa ra những rào cản kỹ thuật khá khắt khe trong việc cấp phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm. Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam phải được Bộ Tài chính cấp Giấy phép thành lập và hoạt động. Những điều kiện để được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động tập trung vào 03 nội dung chính là: Điều kiện về vốn, tiêu chuẩn người quản trị điều hành, hồ sơ và loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định khá cao về trình độ người quản trị điều hành doanh nghiệp và kinh nghiệm công tác để đảm bảo cho người quản lý có đủ khả năng thực hiện tốt công việc ở vị trí được giao. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải đáp ứng điều kiện về chức danh rất đặc thù trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Đó là chuyên gia tính toán (đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ) và chuyên gia tính toán dự phòng và khả năng thanh toán (đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ). Nhìn chung, các quy định đã phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, còn một số nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu như:

- Quy định về việc chủ đầu tư phải chứng minh khả năng góp vốn bằng tiền mặt là khá cứng nhắc. Mặc dù đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là phải có khả năng tài chính vững mạnh để sẵn sàng chi trả bồi thường bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Tuy nhiên, cần quy định linh hoạt để đảm bảo thống nhất với Luật Doanh nghiệp.

- Chưa có quy định tách bạch giữa Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc cũng như chưa có quy định về cơ chế kiểm soát thích hợp trong trường hợp cho phép Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc như hiện nay, tránh việc tập trung quyền lực vào 01 người.

- Quy định về năng lực của các cổ đông là tổ chức xin cấp phép thành lập công ty cổ phần bảo hiểm cần chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo lựa chọn được cổ đông có năng lực tài chính vững mạnh. Hiện nay quy định về điều kiện của chủ đầu tư thành lập công ty cổ phần chưa tương xứng với điều kiện đối với chủ đầu tư thành lập công ty TNHH, trong khi giữa 02 hình thức doanh nghiệp này không có sự ưu tiên trong quy định về cấp phép, thành lập doanh nghiệp bảo hiểm.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác ngăn ngừa TLBH, cần sửa đổi, bổ sung quy định theo hướng chủ đầu tư có thể chứng minh khả năng góp vốn bằng tiền hoặc tài sản; không cho phép 01 cá nhân kiêm Chủ tịch và Tổng Giám đốc, đồng thời quy định chặt chẽ hơn nữa về điều kiện của chủ đầu tư xin thành lập công ty cổ phần bảo hiểm, theo hướng ngoài các điều kiện chung, chủ đầu tư phải có tối thiểu 02 cổ đông sáng lập là tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định và nắm giữ tối thiểu 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán của công ty cổ phần bảo hiểm, tái bảo hiểm.

2. Quy định về quản lý, giám sát sản phẩm bảo hiểm

Do đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm, hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới quy định doanh nghiệp bảo hiểm muốn cung cấp sản phẩm bảo hiểm ra thị trường thì cần phải đáp ứng điều kiện về phê chuẩn, đăng ký sản phẩm bảo hiểm của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Phê chuẩn là một thủ tục pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện bày tỏ sự chấp thuận đối với sản phẩm bảo hiểm sẽ được cung cấp ra thị trường. Mục đích của việc phê chuẩn trước hết là để cơ quan nhà nước thẩm tra tính hợp lý, hợp pháp của sản phẩm bảo hiểm.

Theo quy định hiện hành, Việt Nam đang áp dụng 03 phương thức quản lý, giám sát sản phẩm bảo hiểm gồm: Ban hành quy tắc, điều khoản, biểu phí để áp dụng thống nhất; phê chuẩn sản phẩm; đăng ký sản phẩm trước khi triển khai. Theo đó, Bộ Tài chính ban hành quy tắc, điều khoản, biểu phí đối với các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, cháy nổ bắt buộc, bảo hiểm xây dựng, lắp đặt và hướng dẫn thực hiện các sản phẩm bảo hiểm đặc thù do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định. Phương thức quản lý, giám sát này giúp thống nhất cách hiểu về các thuật ngữ dễ gây tranh chấp trên thị trường bảo hiểm, nhằm chuẩn hóa quy tắc, điều khoản, giải trình cơ sở kỹ thuật tính phí, từ đó góp phần đảm bảo ngăn ngừa TLBH và tránh cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó, do đặc thù liên quan đến sức khỏe, tính mạng của người tham gia bảo hiểm, pháp luật cũng quy định Bộ Tài chính phê chuẩn quy tắc, điều khoản và biểu phí đối với các sản phẩm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm sức khỏe. Đối với các sản phẩm bảo hiểm khác thuộc nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, doanh nghiệp được phép chủ động xây dựng và triển khai quy tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm. Trường hợp quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm không đảm bảo an toàn tài chính, Bộ Tài chính sẽ yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm điều chỉnh cho phù hợp. Việc Bộ Tài chính phê chuẩn quy tắc, điều khoản, biểu phí sẽ đảm bảo rõ ràng khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm, tránh các quy định khó hiểu, phức tạp, dễ gây nhiều cách hiểu khác nhau nhằm tránh TLBH từ cả phía doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.

Về cơ bản, quy định hiện hành về quản lý, giám sát sản phẩm bảo hiểm đã đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, quy định này vẫn còn một số điểm cần sửa đổi cho phù hợp, cụ thể:

- Đối với các sản phẩm do doanh nghiệp bảo hiểm chủ động triển khai: Do được phép chủ động triển khai, nên các sản phẩm này đã phát sinh nhiều khiếu nại về quy tắc, điều khoản, cạnh tranh hạ phí, mở rộng điều khoản, dễ dẫn đến TLBH (tập trung vào các sản phẩm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới), cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi quy định pháp luật để quản lý sản phẩm bảo hiểm này một cách chặt chẽ hơn.

- Việc thực hiện Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung, trong đó bổ sung “Bảo hiểm nhân thọ” thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền giữa Bộ Tài chính và Bộ Công thương, khó áp dụng trên thực tiễn.

Vì vậy, để phù hợp với thực tiễn hoạt động và thông lệ quốc tế, tránh TLBH, cần bổ sung quy định doanh nghiệp bảo hiểm phải đăng ký quy tắc, điều khoản, biểu phí với Bộ Tài chính đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới (trừ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới) trước khi triển khai. Đồng thời cần sửa đổi quy định của pháp luật để tránh chồng chéo về thẩm quyền giữa Bộ Tài chính và Bộ Công thương, đảm bảo việc phê chuẩn sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và đăng ký hợp đồng theo mẫu theo hướng liên thông một cửa.

3. Quy định về quản lý kênh trung gian bảo hiểm

Pháp luật cũng có những quy định về quản lý đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm để đảm bảo các kênh trung gian này hoạt động đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho các bên mà mình đại diện. Luật Kinh doanh bảo hiểm đã có quy định khá rõ về đại lý bảo hiểm như điều kiện hoạt động đại lý, nguyên tắc hoạt động đại lý, các hành vi đại lý bảo hiểm không được thực hiện, quyền và nghĩa vụ của đại lý bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm trong hoạt động đại lý bảo hiểm, đào tạo đại lý bảo hiểm; về điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, nội dung hoạt động môi giới bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Về cơ bản, các quy định về quản lý, giám sát kênh trung gian bảo hiểm này đã đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, quy định này cũng còn một số điểm cần tiếp tục nghiên cứu, xem xét như:

- Pháp luật chưa có quy định để hạn chế hiện tượng cấu kết giữa đại lý, bộ phận giám định và người được bảo hiểm nhằm TLBH; chưa có chế tài xử lý nghiêm minh các trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố tình sử dụng các đại lý bảo hiểm đã từng có hành vi TLBH.

- Pháp luật hiện hành chưa quy định thời hạn có hiệu lực của chứng chỉ đại lý bảo hiểm, dẫn đến trường hợp đại lý sau khi nghỉ một thời gian dài vẫn có thể sử dụng chứng chỉ đại lý cũ để hành nghề mặc dù trong thời gian đó không cập nhật thường xuyên kiến thức chuyên môn và pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, gây tranh chấp, khiếu nại ảnh hưởng tới quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.

- Pháp luật mới có quy định về việc cấp phép thành lập doanh nghiệp môi giới bảo hiểm mà còn bỏ ngỏ đối với đại lý bảo hiểm là tổ chức và các đơn vị thực hiện dịch vụ phụ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm (ví dụ: Đơn vị giám định). Thực tế cho thấy, trong việc ngăn ngừa TLBH thì đây là những chủ thể đóng vai trò khá quan trọng, vì tư vấn của đại lý bảo hiểm hay kết luận giám định của các đơn vị giám định rất có ý nghĩa trong việc tham gia bảo hiểm cũng như bồi thường bảo hiểm. Do đó, nếu quy định không đảm bảo chặt chẽ, đại lý bảo hiểm hoặc các tổ chức phụ trợ có thể cấu kết với người được bảo hiểm để TLBH.

- Quy định về việc thu phí hộ chưa chặt chẽ, dễ dẫn đến trường hợp doanh nghiệp môi giới bảo hiểm cấu kết với khách hàng để TLBH (sự kiện bảo hiểm xảy ra rồi mới mua bảo hiểm).

Vì vậy, cần bổ sung quy định về việc Bộ Tài chính có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với các đơn vị thực hiện dịch vụ phụ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm; yêu cầu doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải nộp phí về doanh nghiệp bảo hiểm ngay sau khi thu được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, cần bổ sung thời hạn của chứng chỉ đại lý bảo hiểm theo hướng: Đại lý bảo hiểm không hoạt động liên tục hoặc không tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đại lý bảo hiểm do cơ sở đào tạo đại lý bảo hiểm tổ chức trong thời hạn một (01) năm có trách nhiệm tham gia khóa học và thi lấy chứng chỉ đại lý bảo hiểm tại cơ sở đào tạo đại lý bảo hiểm.

4. Quy định về phương thức giám sát

Theo quy định hiện hành, cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm thực hiện giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm theo phương thức giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Trên thực tế, thông qua các phương thức giám sát, cơ quan quản lý đã phát hiện và xử lý nhiều sai phạm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình hoạt động kinh doanh, trong đó phát hiện nhiều hồ sơ có dấu hiệu TLBH đề nghị doanh nghiệp bảo hiểm xuất toán.

Nhìn chung, các quy định pháp lý đồng bộ đã buộc các doanh nghiệp bảo hiểm phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường và tuân thủ quy định của pháp luật. Tuy nhiên, một số quy định vẫn còn chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường bảo hiểm như: Mục tiêu giám sát còn chung chung, chưa đề cập riêng đến mục tiêu ngăn ngừa TLBH; chưa nhấn mạnh đến mô hình giám sát nội bộ mà doanh nghiệp bảo hiểm cần phải xây dựng để đánh giá khả năng thanh toán và quản lý của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của mình, tránh TLBH. Mặt khác, hiện nay hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý giám sát còn thô sơ và lạc hậu. Cơ quan quản lý, giám sát chưa được trang bị hệ thống phần mềm quản lý giám sát, trong đó có các dữ liệu lịch sử về các vụ việc TLBH để giám sát, ngăn chặn.

Vì vậy, cần phải hoàn thiện quy định về nội dung giám sát, nhất là quy định về mô hình giám sát nội bộ của doanh nghiệp bảo hiểm vì nếu doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện tốt việc tự giám sát sẽ hạn chế được TLBH. Theo đó, cần quy định quy trình kiểm soát nội bộ phải hướng đến mục tiêu phòng ngừa và hạn chế rủi ro hơn là chỉ đảm bảo nguyên tắc tuân thủ. Cần có tiêu chí rõ ràng, nhất quán và có thể định lượng được nhằm phản ánh chính xác tình hình của doanh nghiệp bảo hiểm, tránh TLBH. Ngoài ra, cần phải bổ sung quy định cơ quan quản lý nhà nước phải có hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo kết nối với doanh nghiệp bảo hiểm để thực hiện tốt chức năng giám sát, ngăn ngừa vi phạm.

5. Quy định về trách nhiệm pháp lý

Liên quan đến hành vi TLBH, pháp luật hiện hành quy định 03 loại trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể thực hiện hành vi, bao gồm trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự.

Về trách nhiệm hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28/8/2013 (Nghị định số 98/2013/NĐ-CP) quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số. Theo đó, đối với hành vi giải quyết bồi thường cho khách hàng chậm sẽ bị phạt tiền từ 20 triệu đến 30 triệu đồng; hành vi yêu cầu người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm trả thù lao hay các quyền lợi vật chất khác trái pháp luật trong quá trình giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm và hành vi thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật sẽ bị phạt từ 60 triệu đến 70 triệu đồng; hành vi gian dối, giả mạo tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm đã nhận tiền bồi thường, trả tiền bảo hiểm bị phạt từ 90 triệu đến 100 triệu đồng. Ngoài ra, các đối tượng có hành vi vi phạm còn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc bãi nhiệm, đình chỉ chức danh người quản trị, điều hành, buộc nộp lại số tiền, lợi ích bất hợp pháp...

Bên cạnh những ưu điểm, Nghị định số 98/2013/NĐ-CP cũng còn một số tồn tại như chưa đưa ra khái niệm và không có quy định trực tiếp về hành vi TLBH mà chỉ quy định về một số hành vi có tính chất và dấu hiệu của TLBH. Đồng thời, Nghị định cũng chưa bao quát được hết các hành vi TLBH trên thực tế, các biện pháp xử phạt chưa được áp dụng đối với tất cả các đối tượng có hành vi vi phạm, mới chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp bảo hiểm hoặc người quản trị, điều hành của doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó, các hình thức xử phạt còn hạn chế trong phạm vi các biện pháp xử phạt hành chính như cảnh cáo, phạt tiền (tối đa với cá nhân là 100 triệu đồng, với tổ chức là 200 triệu đồng) và các hình thức xử phạt bổ sung khác là chưa tương xứng với mức độ vi phạm và mức độ thiệt hại mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải gánh chịu do hành vi TLBH, chưa đủ sức răn đe mạnh mẽ nên chưa có tác động hiệu quả đến việc hạn chế hành vi TLBH trong thực tế.

Ngoài ra, quy định tại Nghị định số 98/2013/NĐ-CP cũng chưa đảm bảo thống nhất, đồng bộ với Bộ luật Hình sự vì so với 04 hành vi phạm tội quy định tại Điều 213 Bộ luật Hình sự thì Điều 14 Nghị định số 98/2013/NĐ-CP mới chỉ quy định 02 hành vi vi phạm, chưa có quy định đối với 02 hành vi: (i) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra; (ii) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm. Vì vậy, cần bổ sung thêm 02 hành vi để đảm bảo thống nhất giữa các hệ thống pháp luật.

- Về trách nhiệm dân sự, hành vi TLBH sẽ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của một bên trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã có những quy định cụ thể, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc chấm dứt hợp đồng, hợp đồng vô hiệu khi phát hiện ra những hành vi TLBH. Với đặc trưng của thị trường bảo hiểm, việc ưu tiên và tạo cơ chế để thực thi trách nhiệm dân sự có ý nghĩa trong việc bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia quan hệ kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, trước khi Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự  năm 2015, việc áp dụng trách nhiệm dân sự đối với hành vi TLBH theo Bộ luật Dân sự năm 2005 còn một số hạn chế nhất định, thông thường cơ quan tài phán không áp dụng quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm mà chỉ áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự trong quá trình xét xử. Tuy nhiên, liên quan đến quan hệ hợp đồng giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, giữa Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Kinh doanh bảo hiểm còn có một số vấn đề còn mâu thuẫn, chồng chéo. Vì vậy, Tòa án còn có xu hướng bênh vực quyền lợi cho bên mua bảo hiểm, một số trường hợp xét xử khá cảm tính, chưa vận dụng đúng quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy, việc bỏ Chương Hợp đồng bảo hiểm tại Bộ luật Dân sự là hoàn toàn cần thiết để tránh chồng chéo, không thống nhất giữa các quy định pháp luật nói trên.

- Về trách nhiệm hình sự: Do mức độ nghiêm trọng của TLBH, nhiều quốc gia đã có quy định cụ thể về TLBH, theo đó đã xác định TLBH là một tội danh hình sự, ngoài hình phạt tiền còn có hình phạt tù. Các quốc gia này quy định về tội danh TLBH theo 03 nhóm khác nhau như: Quy định cả tội danh TLBH và chế tài xử lý hình sự tại một bộ luật riêng (ví dụ: Luật Hình sự Đức, Mỹ); quy định cả tội danh TLBH và chế tài xử lý hình sự tại luật chuyên ngành (ví dụ: Luật Kinh doanh bảo hiểm Hàn Quốc); quy định về hành vi TLBH tại luật chuyên ngành còn tội danh TLBH và chế tài xử lý hình sự đối với tội danh này được quy định tại một luật khác (ví dụ: Anh, Canada, Úc). Ở Việt Nam, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung tội danh gian lận bảo hiểm tại Điều 213 nhằm thống nhất tội danh cho đúng bản chất của hành vi TLBH, đồng thời tạo hành lang pháp lý để các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm được đối xử bình đẳng như các chủ thể khác trong nền kinh tế - xã hội.

Tài liệu tham khảo:

[1]. Thông tư số 124/2012/TT-BTC ngày 30/7/2012  của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định 123/2011/NĐ-CP ngày 28/2/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

[2]. Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

[3]. Nghị định số 98/2009/NĐ-CP ngày 28/8/2013 của Chính phủ về xử phạt vị phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số.

[4].  Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.

[5]. Bộ luật Dân sự năm 2005.

[6]. Bộ luật Hình sự năm 1999.

[7]. Bộ luật Dân sự năm 2015.

[8]. Bộ luật Hình sự năm 2015.

[9]. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

[10]. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010.

NGĂN NGỪA TRỤC LỢI BẢO HIỂM BẰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ, GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC

Tác giả NGUYỄN THỊ HOÀI THU
Tạp chí TẠP CHÍ DÂN CHỦ & PHÁP LUẬT ĐIỆN TỬ
Năm xuất bản 2017
Tham khảo
http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-te.aspx?ItemID=160

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ