Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.
VÀI NÉT VỀ ĐÀU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

VÀI NÉT VỀ ĐÀU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

XT- VPNHNN

imageThực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ đầu tư năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối mở cửa kinh tế của Đảng. Nhờ đó, trong 20 năm qua, đầu tư nước ngoài đã không ngừng được mở rộng và phát triển, góp phần quan trọng vào những thành công của công cuộc đổi mới đất nước, cụ thể:

1. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ 1988-2007

Cho đến cuối năm 2007, cả nước đã thu hút 9.500 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỉ USD. Trừ những dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 83 tỉ USD. Riêng năm 2007 đã thu hút 20,3 tỉ USD, tăng gần 70% so năm 2006, gần bằng tổng mức ĐTNN trong 5 năm 2001-2005 và chiếm 20% tổng vốn ĐTNN trong 20 năm qua.

Sau 20 năm, vốn ĐTNN đã trải rộng khắp 64 tỉnh, thành phố trong nước, nhất là tại những địa bàn trọng điểm hoặc có lợi thế đầu tư, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp (61% vốn đăng ký) và dịch vụ (34,4% vốn đăng ký). Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút 44,87 tỉ USD, chiếm 54%; vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc thu hút 24 tỉ USD, chiếm 27%; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút 8,6 tỉ USD, chiếm 6% tổng vốn đăng ký.

Cho tới nay, đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, khu vực châu Á chiếm 69% tổng vốn đăng ký, châu Âu chiếm 24%, các nước châu Mỹ chiếm 5%. Hiện có 15 quốc gia có vốn đăng ký trên 1 tỉ USD, đứng đầu là Hàn Quốc (trên 13 tỉ USD), thứ hai là Singapore (10,7 tỉ USD), thứ ba là Đài Loan (10,5 tỉ USD), thứ tư là Nhật Bản (9 tỉ USD), thứ năm là British Virgin Islands (8 tỉ USD).

Trong số những dự án còn hiệu lực, có khoảng 50% dự án triển khai với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 30 tỉ USD. Đứng đầu là Nhật Bản với lượng vốn giải ngân đạt gần 5 tỉ USD, tiếp theo là Singapore với lượng vốn giải ngân đạt 3,8 tỉ USD, thứ ba là Đài Loan với lượng vốn giải ngân đạt 3 tỉ USD.

Trong 20 năm qua, ĐTNN đã đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế, từ mức đóng góp trung bình 6,3% GDP trong giai đoạn 1991-1995 lên 10,3% GDP trong giai đoạn 1996-2000 và 14,6% GDP trong giai đoạn 2001-2005, riêng các năm 2006 và 2007 đạt 17% GDP.

Giá trị doanh thu tăng từ 4,1 tỉ USD trong giai đoạn 1991-1995 lên 77,4 tỉ USD trong giai đoạn 2001-2005, giá trị xuất khẩu trong giai đoạn 2001-2005 đạt trên 34,6 tỉ USD, tăng gấp 3 lần so với giai đoạn 1996-2000. Năm 2006, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 22,6 tỉ USD (kể cả dầu thô), chiếm trên 56% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

2. Tác động của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế

Có thể nói, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt nam và là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.

ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ…. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN thường cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và tăng tỉ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP từ 23,7% năm 1991 lên 40% năm 2004. Đến nay, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN chiếm khoảng 35% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, thậm chí đạt 65-70% tại một số địa phương như Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc. Đáng chú ý, ĐTNN đã góp phần tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí, hóa chất, điện tử, một số sản phẩm nông – lâm nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao và nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi mới với năng suất cao.

Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đều áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối với hệ thống quản lý hiện đại từ công ty mẹ. Thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao và lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế.

ĐTNN đóng góp quan trọng vào tăng thu NSNN và các cân đối vĩ mô, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách thời kỳ 1996-2000 tăng gấp 4,5 lần so với thời kỳ 5 năm trước và tăng bình quân 24% trong 5 năm 2001-2005, góp phần đảm bảo cân đối ngân sách và những đối lớn trong nền kinh tế như cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn quốc tế vào Việt Nam và tăng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, mua máy móc và nguyên vật liệu. Cho tới cuối năm 2007, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tạo việc làm cho khoảng 1,26 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.

ĐTNN góp phần giúp Việt Nam tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tăng nhanh hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đạt 10,6 tỉ USD (không kể dầu thô), tăng 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tỉ trọng này tăng mạnh và hiện nay chiếm trên 55%.

ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết 51 hiệp định song phương và đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư.

Liên quan đến ngành Ngân hàng, chính sách quản lý ngoại hối đối với hoạt động ĐTNN đã có những thay đổi cơ bản, phù hợp với tình hình mới và thông lệ quốc tế. Trên cơ sở Luật ĐTNN năm 2000, nhà ĐTNN được mở và sử dụng tài khoản bằng ngoại tệ và VND tại các TCTD được phép để đáp ứng nhu cầu đối với các giao dịch vãng lai, được mở tài khoản ngoại tệ nước ngoài trong trường hợp cần thiết; nhà ĐTNN được tự do mua bán ngoại tệ với TCTD để đáp ứng nhu cầu về giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và những giao dịch khác theo qui định. Chính phủ Việt Nam cam kết và bảo lãnh ngoại tệ đối với một số dự án đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng, v.v. Trên cơ sở đó, NHNN xây dựng cơ chế đặc biệt về bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ đối với những dự án này. Trong trường hợp các ngân hàng chuyển đổi không có đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu dự án, NHNN sẽ đáp ứng đầy đủ, kịp thời lượng ngoại tệ thiếu hụt này. Nghĩa vụ kết hối ngoại tệ cũng bị xóa bỏ và nhà ĐTNN được tự chủ ký kết các hợp đồng vay, trả nợ nước ngoài nếu phù hợp với các qui định của NHNN, không phải thông qua khâu xem xét, chấp thuận của NHNN như trước đây. Trên cơ sở Luật Đầu tư áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam, NHNN đang hoàn thiện dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 160/2006/NĐ-CP nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng một môi trường pháp lý đồng bộ và bền vững và tạo thuận lợi cho nhà ĐTNN.

Bên cạnh những kết quả đạt được, ĐTNN tại Việt Nam trong thời gian qua còn một số tồn tại cần giải quyết:

– Tỉ trọng vốn ĐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm dần do vốn ĐTNN thực hiện tăng chậm hơn so với vốn đầu tư của những thành phần kinh tế khác, lợi thế về chi phí sử dụng vốn ĐTNN chưa cao do vốn vay từ các ngân hàng trong nước chiếm tới 30% vốn ĐTNN thực hiện;

– Đầu tư từ các nước phát triển có thế mạnh về công nghệ như Hoa Kỳ, EU tăng chậm;

– Việc phân bổ luồng vốn ĐTNN theo ngành và địa phương còn một số bất hợp lý, tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi, trong khi tác động rất ít đến khu vực miền núi phía Bắc, các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Mặc dù có chính sách ưu đãi nhưng lĩnh vực nông – lâm nghiệp chỉ thu hút được một lượng vốn rất thấp và tỉ trọng vốn ĐTNN đăng ký vào lĩnh vực này liên tục giảm;

– Sự liên kết giữa khu vực ĐTNN và kinh tế trong nước còn lỏng lẻo, khả năng của các doanh nghiệp trong nước trong việc cung cấp nguyên liệu và phụ kiện cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN còn hạn chế, làm giảm khả năng tham gia vào chương trình nội địa hóa và xuất khẩu qua các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Do phải nhập khẩu nhiều thiết bị, máy móc cũng như nguyên vật liệu để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu, nên khu vực ĐTNN luôn trong tình trạng thâm hụt thương mại với mức thâm hụt ngày càng tăng;

– Môi trường pháp lý tuy đã được cải thiện đáng kể, nhưng còn nhiều bất cập và còn có sự phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp trong nước, mỗi địa phương lại có chính sách khác nhau, cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ và giá thuê nhà đất còn cao, gây khó khăn cho việc triển khai các dự án có vốn ĐTNN.

Để đảm bảo dòng vốn ĐTNN cho phát triển kinh tế trong nước, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện những giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách theo hướng phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế đã cam kết, góp phần tạo môi trường thuận lợi để huy động nguồn lực của mọi thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Theo dõi và giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và hoạt động doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý những vướng mắc phát sinh. Đồng thời, nâng cao hiệu lực quản lý thị trường, nhất là thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, đảm bảo ổn định giá cả và các chỉ số kinh tế vĩ mô trong bối cảnh hội nhập với những diễn biến phức tạp và tác động khó lường của thị trường quốc tế.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới quản lý hành chính theo cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục và cấp giấy phép đầu tư. Xứ lý kịp thời và dứt điểm những vướng mắc trong quá trình cấp phép và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa trung ương và địa phương và giữa các bộ, ngành liên quan. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo qui định tại Luật Đầu tư và những qui định mới về phân cấp quản lý ĐTNN.

Thứ ba, tập trung các nguồn lực để đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc triển khai các hoạt động đầu tư tại Việt Nam, có chính sách thích hợp về khuyến khích tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng.

Thứ tư, coi trọng và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ, tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về lao động, tiền lương, nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Thứ năm, tiếp tục rà soát, cập nhật, bổ sung danh mục thu hút đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư và qui hoạch phát triển ngành, địa phương. Sớm thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại những địa bàn trọng điểm và xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư và hoạt động thương mại, nhằm tạo sự đồng bộ và nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của các nhà lành đạo cấp cao với các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại.

Thứ sáu, chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng công nghệ hóa, hiện đại hóa, mở rộng ĐTNN theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa. Nâng cao chất lượng qui hoạch ĐTNN phù hợp với qui hoạch phát triển ngành, lãnh thổ, chiến lược sản phẩm, thị trường tiêu thụ và chiến lược hội nhập trong từng thời kỳ. Cải tiến bộ máy quản lý nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả kinh doanh. Thúc đẩy các hoạt động hỗ trợ, xúc tiến đầu tư, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệm, tạo điều kiện chuyển giao công nghệ, chống độc quyền và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh.

Thứ bảy, xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu tốt về ĐTNN và các giao dịch vốn cũng như những biện pháp quản lý và tập hợp dữ liệu, từng bước tự do hóa giao dịch vốn.

VÀI NÉT VỀ ĐÀU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Tác giả
Tạp chí
Năm xuất bản 0
Tham khảo

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ