TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HCM

Bản số: 15/2007/KDTM-ST

Ngày: 18/10/2007

V/v: “Tranh chấp giữa thành viên

Công ty về hợp đồng góp vốn”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

------------------

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Ông Nguyễn Văn T- Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Ông Trần Viết D- Hội thẩm nhân dân

3. Bà Cao Kim H- Hội thẩm nhân dân

Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông Nguyễn Đức K- Cán bộ Tòa án nhân dân Quận X 
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X không tham gia phiên toà.

Trong ngày 18 tháng 10 năm 2007 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố HCM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 702/2006/TLST-KDTM ngày 16 tháng 10 năm 2006 “Tranh chấp giữa Thành viên của công ty về hợp đồng góp vốn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1800/2007/QĐST - KDTM ngày 01 tháng 10 năm 2007 giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

Ông NĐ_Đỗ Lê Hồng;

BỊ ĐƠN:

Bà BĐ_Phạm Quỳnh Mai;

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Bà LQ_Võ Thị Nhi– sinh 1985;

Bà LQ_Võ Thị Trang– sinh 1986;

Bà LQ_Đặng Thị Ca– sinh 1983;

NHẬN THẤY:

Trong đơn khởi kiện ngày 19 tháng 07 năm 2006 của nguyên đơn là ông NĐ_Đỗ Lê Hồng và các lời trình bày tiếp theo của ông Nguyễn Văn Sơn– đại diện uỷ quyền trong phiên hoà giải và tại phiên  Tòa thì vào ngày 21/4/2006 giữa ông NĐ-Nam và bị đơn  là bà  BĐ_Phạm Quỳnh Mai có ký hợp đồng thỏa thuận hợp tác thành lập Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng, địa chỉ tại số 139 AB NT, Quận X TP. HCM, với các điều khoản như sau: bị đơn góp vốn bằng căn nhà số 139AB NT, Quận X TP. HCM còn nguyên đơn góp bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị và đầu tư thành lập Công ty. Sau khi hoàn tất thủ tục thành lập  Công tygồm có 5 thành viên là bà BĐ_Phạm Quỳnh Mai, ông NĐ_Đỗ Lê Hồng, bà LQ_Võ Thị Nhi, bà LQ_Võ Thị Trang và bà LQ_Đặng Thị Ca. Công ty đã đi vào hoạt động được khoảng 2 tháng thì vào đầu tháng 7/2006 bị đơn tự ý đóng cửa Công ty, ngưng hợp đồng với nguyên đơn trước thời hạn, tự ý cất giấu toàn bộ hồ sơ giấy phép, dấu mộc của  Công tyvà khoá cửa không cho nhân viên của nguyên đơn vào làm việc.

Nay do bị đơn vi phạm hợp đồng gây thiệt hại đến quyền lợi của nguyên đơn, vì vậy yêu cầu bị đơn phải bồi thường ngay các thiệt hại phát sinh gồm tiền phạt đã thỏa thuận tại Điều 6 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 21/4/2006 là 800.000.000 đồng tương đương với 50.000 USD và trả lại bằng tiền là 404.788.960 đồng, đây là trị giá toàn bộ trang thiết bị mà  Công tyđã đầu tư trong thời gian hoạt động gồm các khoản như sau:

-   Sơn sửa nhà: 91.481.000 đồng

-   Lắp đặt nhôm và kiếng: 8.273.000 đồng;

-   Lắp đặt h  thống âm thanh: 15.000.000 đồng;

-   Mua bình chữa cháy: 3.860.000 đồng;

-   Sửa chữa đồ gỗ và đóng mới tủ mỹ phẩm: 25.000.000 đồng;

-   07 bàn kiếng chân sắt: 4.760.000 đồng;

-   Mua ghế đôn thường:1.350.000 đồng;

-   03 bộ máy lạnh hiệu Reetech RT/R  18G5E(2.0 HP): 35.580.000 đồng;

-    Chi phí quảng cáo trên các báo: 19.924.000 đồng;

-   Mua hoa trang trí: 6.900.000 đồng;

-   Mỹ phẩm các loại: 192.660.960 đồng.

Tại văn bản tự khai ngày 20/11/2006 của bị đơn bà BĐ_Phạm Quỳnh Mai và các lời trình bày tiếp theo trong phiên hoà giải và tại phiên Tòa của ông Đoàn Thanh Tâm – là đại diện uỷ quyền xác nhận bị đơn có ký hợp đồng hợp tác kinh doanh như nguyên đơn trình bày, lúc ký hợp đồng này là do tin tưởng nguyên đơn có bằng cấp chuyên môn về phẫu thuật thẩm mỹ nên mới hợp tác kinh doanh, đến khiệnhận được giấy phép thấy không được cấp phép kinh doanh ngành nghề này bị đơn đã hỏi và nguyên đơn hứa sẽ bổ sung ngành nghề này sau.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, do có số khách hàng có đơn khiếu nại về chất lượng thực hiện các ca phẫu thuật do nguyên đơn thực hiện thì nguyên đơn thừa nhận không có bằng cấp chuyên môn lĩnh vực này và đề nghị sẽ thuê bằng của bác sĩ có chuyên môn để tiếp tục hoạt động kinh doanh, bị đơn không chấp nhận vì đây là hành vi kinh doanh trái phép, nguyên đơn đã lừa dối bị đơn khi giao dịch hợp tác kinh doanh với nhau, do đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại cũng như yêu cầu đòi bồi thường tiền sửa chữa mặt bằng của nguyên đơn vì đây là giao dịch vô hiệu và trước khi hai bên kinh doanh bị đơn sửa chữa nhà trên, nguyên đơn không sửa chữa gì.

Ngoài ra, ngày 12/7/2006 hai bên đã liệt kê tài sản của Công ty, ngày 28/9/2006 lập biên bản thanh lý tài sản và ngày 29/9/2006 nguyên đơn đã đem đi các tài sản của mình, đồng thời còn lấy đi các tài sản khác của bị đơn có tổng giá trị là 113.730.000 đồng, nay yêu cầu nguyên đơn giao trả lại ngay gồm các tài sản như sau:

-   01 máy giặt: 3.200.000 đồng;

-   Bếp ga, bình ga, k : 1.400.000 đồng;

-   12 giường (400 x12): 4.800.000 đồng;

-   01 nồi cơm điện: 500.000 đồng;

-   01 tủ lạnh: 2.500.000 đồng;

-    Cân bàn, 01 ổn áp: 1.000.000 đồng;

-   01 bàn kiếng tiếp tân, 01 bàn kiếng nhỏ: 8.500.000 đồng;

-   08 bộ màn cửa lớn, nhỏ: 1.000.000 đồng;

-   01 bao đựng quần áo nhân viên: 5.000.000 đồng;

-   01 cây lau nhà:100.000 đồng;

-   04 hộp đèn cầy: 50.000 đồng;

-   02 ghế massage: 380.000 đồng;

-   14 mền xanh: 1.400.000 đồng;

-   01 máy Việtính: 5.000.000 đồng;

-   01 máy in: 3.000.000 đồng;

-   01 đầu đĩa: 1.000.000 đồng;

-   06 chậu thuỷ tinh: 600.000 đồng;

-   01 tủ đựng hồ sơ: 2.500.000 đồng;

-   01 tủ đựng đồ khách: 3.000.000 đồng;

-   01 quả địa cầu: 500.000 đồng;

-   01 bồn để cá: 2.000.000 đồng;

-   04 kệ để dép: 300.000 đồng;

-   09 bộ máy lạnh: 65.000.000 đồng.

Về yêu cầu của nguyên đơn đòi lại tài sản bị đơn không chấp nhận mặc dù bị đơn đang quản lý số tài sản gồm giường, nệm, drap, gối, tủ mỹ phẩm, máy tính xách tay hiệu Dell, két sắt, bàn kiếng, ghế nhưng tất cả tài sản này là của bị đơn. Ngoài ra, tại phiên Tòa, bị đơn không yêu cầu nguyên đơn bồi thường do mất thu nhập từ việc hợp tác kinh doanh với nguyên đơn từ tháng 4/2006 đến tháng 7/2006 là 200.000.000 đồng.

Tại văn bản tự khai ngày 20/11/2006 của người có quyền và nghĩa vụ liên quan gồm bà LQ_Võ Thị Nhi và bà LQ_Võ Thị Trang có ông Đoàn Thanh Tâm – đại diện uỷ quyền trình bày: Bà LQ_Nhi và bà LQ _Cúc là đồng sở hữu căn nhà 139 AB NT Quận X và là thành viên của  Công tyCổ phần Đầu tư thẩm mỹ Thanh Hằng, tuy nhiên, hai bà này không góp vốn cùng kinh doanh. Về hợp đồng hợp tác giữa nguyên đơn và bị đơn hai bà này không rõ chỉ biết nguyên đơn chịu trách nhiệm về chuyên môn phẫu thuật thẩm mỹ nên hai bà cùng ký tên vào hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006. Quá trình thực hiện hợp đồng trên, hai bà thống nhất như lời trình bày của bị đơn và đề nghị Tòa không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Tại văn bản tự khai ngày 05/12/2006 của người có quyền và nghĩa vụ liên quan là bà LQ_Đặng Thị Ca xác nhận về hình thức bà là thành viên Công ty, thực tế không góp vốn và không rõ về hoạt động kinh doanh của Công ty. Nay đồng ý theo các ý kiến trình bày của nguyên đơn trong vụ án này và cho rằng hợp đồng hợp tác giữa hai bên không có sự lừa dối vì phía bị đơn lo thủ tục đăng ký kinh doanh cho Công ty.

XÉT THẤY:

Sau khiệnghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Xét quan hệ tranh chấp phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp giữa các thành viên của  Công tyvới nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động và giải thể Công ty và   Công ty cổ phần đầu tư thẩm mỹ Thanh Hằng có trụ sở tại TP. HCM. Vì vậy căn cứ vào Khoản 3 Điều 29 và Khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định Tòa Kinh tế TAND TP. HCM giải quyết vụ án này theo thủ tục sơ thẩm.

Về thời hiệu khởi kiện: Xét, trong quá trình hoạt động của  Công tydo có tranh chấp phát sinh nên ngày 19/07/2006 ông NĐ_Đỗ Lê Hồng đã làm đơn khởi kiện, vì vậy, căn cứ vào Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đơn khởi kiện của ông NĐ_Đỗ Lê Hồng nằm trong thời hiệu khởi kiện nên được chấp nhận để xem xét.

Về yêu cầu tranh chấp của nguyên đơn về việc đòi bị đơn bồi thường thiệt hại do bị đơn vi phạm hợp đồng hợp tác kinh doanh là 800.000.000 đồng tương đương 50.000 USD và hoàn trả bằng tiền Việt Nam giá trị của các trang thiết bị đầu tư là 404.788.960 đồng. Tổng cộng là 1.204.788.960 đồng. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Căn cứ vào Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. HCM cấp cho  Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng, số 4103004726 đăng ký lần đầu ngày 10/05/2006, trong đó ghi danh sách cổ đông sáng lập gồm bà BĐ_Phạm Quỳnh Mai có số cổ phần là 5.000; ông NĐ_Đỗ Lê Hồng là 2.000 cổ phần, còn lại các bà LQ_Võ Thị Trang, LQ_Võ Thị Nhi và LQ_Đặng Thị Ca mỗi người có 1.000 cổ phần; ông  NĐ_Hồng là Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của Công ty; địa chỉ trụ sở chính tại 139  A-139 B NT, Phường BT, Quận X với ngành, nghề kinh doanh gồm mua bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẩm mỹ. Y: ngoại tổng quát. Đào tạo nghề.

Xét, các bên đã xác nhận việc ghi tên và phần góp vốn của các bà LQ_Nhi, Lan và LQ_Ca vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là nhằm hợp thức hoá thủ tục thành lập ông ty, thực tế toàn bộ vốn góp là do ông NĐ_Hồng và bà BĐ_Mai bỏ ra, việc này còn được xác nhận trong Hợp đồng thỏa thuận hợp tác ngày 21/4/2006, trong đó, thể hiện phần góp vốn của bà BĐ_Mai bằng căn nhà số 139  AB NT, Quận X, TP. HCM; ông NĐ_Hồng góp vốn bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị, đầu tư thành lập Công ty; các thành viên khác không góp vốn (không có quyền sở hữu tài sản Công ty và không được phân chia lợi nhuận). Đồng thời, chia lợi nhuận sau khi trừ chi phí hoạt động, được chia đều 50% cho bà BĐ_Mai và ông NĐ_Hồng.

Như vậy, việc hoạt động kinh doanh của  Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng đã không thực hiện việc kê khai trung thực, không chính xác về nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định hiện hành là vi phạm các quy định về Luật Doanh nghiệp năm 2005.

Xét, tại Điều 6 của Hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 đã nêu “Trường hợp ông NĐ_Hồng tự ý ngưng hợp đồng trước thời hạn thì toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư sẽ thuộc quyền sở hữu của bà BĐ_Mai kèm 50.000 USD tiền mặt.Trường hợp bà BĐ_Mai tự ý ngưng hợp đồng trước thời hạn thì toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư sẽ thuộc quyền sở hữu của ông NĐ_Đỗ Lê Hồng kèm 50.000 USD tiền mặt.”. Căn cứ vào điều khoản này phía nguyên đơn cho rằng do bị đơn tự ý ngưng hợp đồng trước thời hạn nên phải bồi thường cho nguyên đơn.

Còn phía bị đơn nại ra rằng do nguyên đơn lừa dối bị đơn từ trước khi ký hợp đồng vì cho rằng bản thân nguyên đơn là bác sĩ chuyên giải phẫu thẩm mỹ có tay nghề cao có nhiều khách hàng và đã đưa bị đơn đến nơi đang hành nghề là Trung tâm chăm sóc sắc đẹp tại số 55

TĐ Quận X, TP. HCM, vì vậy, khi ký hợp đồng đã thỏa thuận nguyên đơn chịu trách nhiệm về chuyên môn phẫu thuật, tuy nhiên, khi có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì không được phép hành nghề giải phẫu thẩm mỹ, do đó, ngày 12/7/2006 các thành viên trong  Công tyđã thống nhất tạm ngưng hoạt động kinh doanh vì nguyên đơn vẫn chưa có bằng cấp theo yêu cầu, tuy nhiên, ông NĐ_Hồng và bà LQ_Ca không đồng ý ký vào biên bản họp này, do đó, không đồng ý bồi thường thiệt hại trên cho nguyên đơn.

Xét, đại diện nguyên đơn thừa nhận trước khi hợp tác kinh doanh với bị đơn ông NĐ_Hồngđã hoạt động hành nghề phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ tại Trung tâm chăm sóc sắc đẹp Xuân Phương ở số 55 TĐ Quận X, TP. HCM và khi thực hiện việc hành nghề này nguyên đơn chưa được cấp chứng chỉ hành nghề nêu trên, việc này được thể hiện trong   ông văn số 78 ngày 29/82006 của Thanh tra Sở Y tế TP. HCM có nội dung thể hiện ông NĐ_Hồng hành nghề không có bằng cấp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp nên đã bị phạt theo quy định, như vậy, việc bị đơn cho rằng đã bị lừa dối khi ký hợp đồng hợp tác là có cơ sở, bởi lẽ, tại Điều 3 trong hợp đồng ghi rõ ông NĐ_Đỗ Lê Hồng chịu trách nhiệm về chuyên môn phẫu thuật.

Tại phiên Tòa ý kiến của đại diện nguyên đơn nại ra rằng hai bên thỏa thuận trong hợp đồng ông NĐ_Hồng chịu trách nhiệm chuyên môn phẫu thuật, tuyển nhân sự có nghĩa là ông NĐ_Hồng không phải là người trực tiếp phẫu thuật mà sẽ tuyển người có bằng cấp hành nghề này, xét ý kiến này là không thể chấp nhận, bởi lẽ, trong các nội dung quảng cáo về hoạt động kinh doanh của  Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng  đã thể hiện ông NĐ_Hồng phụ trách khâu phẫu thuật thẩm mỹ, tạo hình.. và   Công tycũng không có người nào khác thực hiện chuyên môn này, do đó, căn cứ theo Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định có cơ sở để xác định Hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời điểm xác lập vì nguyên đơn đã cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung giao dịch mà xác lập việc giao dịch trên với nguyên đơn, vì vậy, căn cứ Điều 137 Bộ luật Dân sự quy định thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, do đó, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền.

Xét, các bên thừa nhận ngày 12/7/2006 đã tiến hành lập biên bản kiểm kê tài sản của ông ty, thống nhất với bản liệt kê này về giá trị tài sản như các bên tự xác định. Đồng thời, ngày 28/9/2006 nguyên đơn và bị đơn đã tiến hành việc giao nhận lại tài sản đã góp vào Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng, trong đó đã thể hiện nguyên đơn được nhận lại những tài sản liệt kê từ tờ I đến tờ V theo Biên bản ngày 28/9/2006, bị đơn nhận lại phần tài sản còn lại trong nhà 139  AB NT Quận X, TP. HCM. Tại phiên Tòa, đại diện nguyên đơn cũng xác định để tránh thiệt hại hư hao tài sản nên hai bên đã thống nhất tài sản của người nào người đó lấy về. Như vậy, về cơ bản hai bên đã khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã góp vào Công ty.

Tuy nhiên, tại phiên Tòa cả hai đều cho rằng chưa được giao nhận lại đầy đủ, cụ thể, phía nguyên đơn cho rằng bị đơn còn chưa giao lại cho nguyên đơn những tài sản như 03 máy lạnh, 01 ghế đôn sơn thường, 07 bộ bàn kiếng chân sắt, 01 bình chữa cháy và lô hàngồmỹ phẩm theo biên bản liệt kê ngày 12/7/2006. Còn phía bị đơn cho rằng nguyên đơn đã lấy nhầm của bị đơn những tài sản như 01 máy giặt, 01 bộ bếp gas, 12 giường, 01 nồi cơm điện,

01 tủ lạnh, 01 cân bàn, 01 ổn áp, 01 bàn kiếng tiếp tân, 01 bàn kiếng nhỏ, 08 bộ màn cửa lớn, nhỏ, 01 bao đựng quần áo nhân viên, 01 cây lau nhà, 04 hộp đèn cầy, 02 ghế massage, 14 mền xanh, 01 máy vi tính, 01 máy in, 01 đầu đĩa, 06 chậu thuỷ tinh, 01 tủ đựng hồ sơ, 01 tủ đựng đồ  khách, 01 quả địa cầu, 01 bồn để cá, 04 kệ để dép, 09 bộ máy lạnh.

Xét, lời khai nhận của các bên tại phiên Tòa cho thấy khi   Công ty chuẩn bị và tiến hành hoạt động kinh doanh, việc đưa tài sản là phần góp vốn của các thành viên là nguyên đơn và bị đơn không được lập biên bản nhập kho quỹ theo quy trình của hệ thống kế toán củaCông tycũng không có sự xác nhận của các bên với nhau, vì vậy, không có cơ sở để xác định tài sản của nguyên đơn đưa vào góp vốn của  Công tygồm những vật dụng, trang thiết bị nào để làm cơ sở đối chiếu, xem xét mặc dù trong Biên bản kiểm kê ngày 12/7/2006 thể hiện tại nhà 139 AB NT Quận X có những tài sản nêu trên, vì vậy, căn cứ vào Biên bản thanh lý tài sản ngày 28/9/2006 cho thấy việc giao nhận tài sản đã góp vào  Công tycủa hai bên đã được giải quyết xong, vì vậy, khi ký nhận tài sản, đại diện uỷ quyền của nguyên đơn đã ghiệnhận “Các tài sản còn lại trong nhà 139 AB NT là của bị đơn” mà không có ý kiến về các tài sản khác còn lại thuộc về nguyên đơn sở hữu chưa được giải quyết; mặt khác trong Bản kiểm kê ngày 12/7/2006 cũng không xác định tất cả các tài sản đã kiểm kê là của  Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng . Còn về các vật dụng khác như 01 ghế đôn sơn thường, 07 bộ bàn kiếng chân sắt và 01 bình chữa cháy không thể hiện có trong biên bản kiểm kê ngày 12/7/2006, do đó, yêu cầu đòi bị đơn giao tiếp các tài sản nêu trên của nguyên đơn không có cơ sở để chấp nhận.

Xét, tại phiên Tòa phía nguyên đơn không yêu cầu bị đơn trả lại các tài sản như máy tính xách tay, máy soi da và két sắt, vì vậy Tòa không xét.

Về yêu cầu của bị đơn về việc đòi nguyên đơn hoàn trả lại các trang thiết bị đầu tư đã lấy nhầm khi bàn giao tài sản có trị giá là 112.730.000 đồng. Xét, như đã phân tích trên về việc các bên không tiến hành thủ tục giao nhận tài sản đầu tư ban đầu nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu này của bị đơn.

Về yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn thanh toán lại các chi phí do nguyên đơn bỏ ra đầu tư sửa chữa nhà 139 AB NT, xét thấy yêu cầu này là không thể chấp nhận được, bởi lẽ, nguyên đơn không xuất trình được giấy sửa chữa do cơ quan chức năng cấp phép, không được bị đơn thừa nhận và không được ghiệnhận trong các sổ sách chứng từ thu chi kế toán của    ông ty. Đồng thời, tại Biên bản thẩm định tại chổ ngày 11/9/2007 đã thể hiện những phần sửa chữa như nguyên đơn trình bày trong bản tường trình ngày 18/6/2007 ở các mục

2.1, 2.2, 2.3, 2.5 đều không đồng như đã nêu ra.

Về chi phí quảng cáo cho hoạt động của  Công tytrên các báo, xét thấy yêu cầu này là không có cơ sở, bởi lẽ, tại phiên Tòa phía nguyên đơn xác nhận bị đơn là người ký hợp đồng quảng cáo và việc quảng cáo này nhằm mục đích tiếp thị hoạt động kinh doanh của  Công tynên không thể buộc bị đơn hoàn lại.

Về yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi lại số hàng hoá là mỹ phẩm các loại, xét thấy yêu cầu này không có cơ sở, bởi lẽ, tại phiên Tòa bị đơn đã chứngồminh bà BĐ_Mai là người trực tiếp ký hợp đồng mua các lô hàng mỹ phẩm đã liệt kê trong Biên bản ngày 12/7/2006 vì trước và trong khi hợp tác với nguyên đơn, bị đơn là chuyên viên săn sóc da mặt nên khi tiến hành thanh lý tài sản  Công ty ngày 28/9/2006 nguyên đơn đã không nhận lại các hàng hoá này. Đồng thời, phía nguyên đơn cũng không chứng minh được việc đã bỏ tiền ra để mua các mỹ phẩm nêu trên.

Xét, hợp đồng hợp tác bị vô hiệu cần phải huỷ và hậu quả của việc giao dịch vô hiệu được giải quyết theo quy định của Khoản 1 và 2 Điều 137 Bộ luật Dân sự, bên có l  i gây ra thiệt hại phải bồi thường. Căn cứ, nội dung theo Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh số

4103004726 chỉ được phép kinh doanh gồm mua bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẩm mỹ. Y: ngoại tổng quát, đào tạo nghề, tuy nhiên, theo lời các bên thừa nhận sau khi Công ty hoạt động đã thực hiện ngành nghề phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, mặc dù, tại phiên Tòa phía nguyên đơn cho rằng ông NĐ_Hồng đã thực hiện hai ca phẫu thuật thẩm mỹ cho khách hàng bạn bà BĐ_Mai là thực hiện theo yêu cầu của bà BĐ_Mai. Như vậy, hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh đã vi phạm theo Điều 9,

Điều 11 Luật Doanh nghiệp năm 2005.

Đồng thời, việc hoạt động ngành nghề kinh doanh phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề nhưng Công ty không đáp ứng nhưng vẫn cố tình hoạt động kinh doanh là hành vi bị cấm vi phạm Điều 11 Luật Doanh nghiệp năm

2005. Như vậy, có cơ sở để xác định nguyên nhân dẫn đến hợp đồng hợp tác bị vô hiệu là do l  i của nguyên đơn vì không có chứng chỉ hành nghề kinh doanh theo thỏa thuận khi hợp tác, tuy nhiên, phía bị đơn khi giấy chứng nhận kinh doanh được cấp vào ngày 10/5/2006 biết không được cấp phép hành nghề như thỏa thuận nhưng vẫn đồng ý chấp nhận cho nguyên đơn bổ sung ngành nghề và để   Công tytiếp tục hoạt động kinh doanh ngành nghề không phép trong 2 tháng đến 12/7/2006 mới chấm dứt hoạt động kinh doanh vì vậy đã rút lại yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, tự chịu tổn thất phát sinh do việc hợp tác kinh doanh với nguyên đơn vì đã mất thu nhập cho thuê nhà trong 4 tháng là 200.000.000 đồng.

Xét, như đã phân tích trên bị đơn không có lỗi trong việc giao dịch này vì ý chí của hai bên khi ký thỏa thuận hợp tác kinh doanh ngày 21/4/2006 thì ngoài các ngành nghề được phép kinh doanh còn phải có hoạt động hành nghề về phẫu thuật, trong khi, ông NĐ_Hồng không có bằng cấp về chuyên môn phẫu thuật nên thỏa thuận này là trái luật, do đó, nghĩ nên bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại là 800.000.000 đồng tương đương 50.000 USD của nguyên đơn.

Từ những phân tích vi phạm trên của  Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng , vì vậy, kiến nghị Sở Kế hoạch Đầu tư TP.HCM xem xét và xử lý hành vi vi phạm nêu trên theo luật định.

Về án phí: Nguyên và bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thươngồmại sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ Điều 29; 34; 35; Khoản 1 Điều 131; Điều 210 Bộ luật Tố tụng Dân sự có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2005; Điều 9; 11 Luật Doanh nghiệp năm 2005;Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp; Điều 128; 132; 136; 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, Khỏan 2 Điều 15, Khoản 1 Điều 19 Nghị định 70/CP  của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí của Tòa án ngày 12 tháng 06 năm 1997; tuyên xử:

1.   Tuyên bố Hợp đồng thỏa thuận hợp tác lập ngày 21/4/2006 ký giữa ông NĐ_Đỗ Lê Hồng và bà BĐ_phạm Quỳnh Mai bị vô hiệu toàn bộ.

2.   Kiến nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố HCM xử lý hành vi vi phạm Luật Doanh nghiệp đối với   Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng  về việc không thực hiện việc kê khai trung thực, không chính xác về nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh.

3.   Không chấp nhận yêu cầu của ông NĐ_Đỗ Lê Hồng về việc đòi bà BĐ_Phạm Quỳnh Mai phải bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng hợp tác là 800.000.000 đồng tương đương 50.000 USD và phải trả lại bằng tiền Việt Nam là 404.788.960 đồng gồm trị giá toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư trong thời gian hoạt động  Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng  gồm các khoản như sau:

-   Sơn sửa nhà: 91.481.000 đồng;

-   Lắp đặt nhôm và kiếng: 8.273.000 đồng;

-   Lắp đặt h  thống âm thanh: 15.000.000 đồng;

-   Mua bình chữa cháy: 3.860.000 đồng;

-   Sửa chữa đồ gỗvà đóng mới tủ mỹ phẩm: 25.000.000 đồng;

-   07 bàn kiếng chân sắt: 4.760.000 đồng;

-   Mua ghế đôn thường:1.350.000 đồng;

-   03 bộ máy lạnh hiệu Reetech RT/R  18G5E(2.0     ): 35.580.000 đồng;

-      hi phí quảng cáo trên các báo: 19.924.000 đồng;

-   Mua hoa trang trí: 6.900.000 đồng;

-   Mỹ phẩm các loại: 192.660.960 đồng.

4.   Không chấp nhận yêu cầu của bà BĐ_Phạm Quỳnh Mai về việc đòi ông NĐ_Đỗ Lê Hồng phải trả lại bằng tiền là 112.730.000 đ ng là trị giá toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư trong thời gian hoạt động   Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm mỹ Thanh Hằng  gồm các khoản như sau:

-   01 máy giặt: 3.200.000 đồng;

-   Bếp ga, bình ga, k : 1.400.000 đồng;

-   12 giường (400 x12): 4.800.000 đồng;

-   01 nồi cơm điện: 500.000 đồng;

-   01 tủ lạnh: 2.500.000 đồng;

-    Cân bàn, 01 ổn áp: 1.000.000 đồng;

-   01 bàn kiếng tiếp tân, 01 bàn kiếng nhỏ: 8.500.000 đồng;

-   08 bộ màn cửa lớn, nhỏ: 1.000.000 đồng;

-   01 bao đựng quần áo nhân viên: 5.000.000 đồng;

-   01 cây lau nhà:100.000 đồng;

-   04 hộp đèn cầy: 50.000 đồng;

-   02 ghế massage: 380.000 đồng;

-   14 mền xanh: 1.400.000 đồng;

-   01 máy vi tính và máy in: 8.000.000 đồng;

-   01 đầu đĩa: 1.000.000 đồng;

-   06 chậu thuỷ tinh: 600.000 đồng;

-   01 tủ đựng h   sơ: 2.500.000 đồng;

-   01 tủ đựng đ   khách: 3.000.000 đồng;

-   01 quả địa cầu: 500.000 đồng;

-   01 bồn để cá: 2.000.000 đồng;

-   04 kệ để dép: 300.000 đồng;

-   09 bộ máy lạnh: 65.000.000 đồng.

5.   Về án phí kinh tế sơ thẩm: Ông NĐ_Đỗ Lê Hồng phải chịu là 28.205.000 đồng, nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự T  .HCM, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 12.000.000 đồng theo Biên lai số 008491 ngày 20/7/2006 của Thi hành án Dân sự Quận X và 7.999.000 theo Biên lai số 002878 ngày 22/8/2007 của Thi hành án Dân sự TP. HCM, ông NĐ_Hồng còn phải nộp án phí kinh tế sơ thẩm là 8.206.000 đồng tại Thi hành án dân sự T  . HCM. Bà BĐ_Phạm Quỳnh Maiphải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là 5.549.500 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 6.956.000 đồng theo Biên lai số 002798 ngày 14/8/2007 của Thi hành án dân sự TP. HCM, bà BĐ_Mai được nhận lại án phí KTST là 1.406.500 đồng tại cơ quan Thi hành án dân sự TP. HCM. Bà BĐ_Mai đã nộp đủ án phí kinh tế sơ thẩm.

Đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

 

 

 

Tên bản án

Bản số 15/2007/KDTM-ST Tranh chấp giữa thành viên Công ty về hợp đồng góp vốn

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English