TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG   
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 24/2017/HSPT

Ngày: 27/3/2017

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

- Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Trần Văn Luông.
- Các Thẩm phán: Ông Lê Văn Vân;

                           Ông Bùi Ngọc Thạch.
- Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Hùng Cường - Cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Ông Trần Trí Thức - Kiểm sát viên.
Vào ngày 27 tháng 3 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình

Dương mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số

08/2017/HSPT ngày 17 tháng 01 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 182/2016/HSST ngày 07/12/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát.

Họ và tên bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Hoàng T (tên gọi khác: Đen), sinh năm 1988, tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Ấp RB, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Hoàng TU, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Bé S, sinh năm 1967; tiền án: Ngày 10/9/2008 bị Tòa án nhân dân thị huyện Bến Cát (nay là thị xã Bến Cát), tỉnh Bình Dương xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/4/2016 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án còn có 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NHẬN THẤY:

Theo bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát thì nội dung vụ án như sau:

Nguyễn Hoàng T là người nghiện ma túy, có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích. Ngày 24/6/2014, sau khi chấp hành xong hình phạt tù, T về khu vực ấp B, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh BìnhDương sinh sống, đi làm thuê và tái nghiện ma túy. Đến năm 2015, Nguyễn Hoàng T có quan hệ tình cảm với Huỳnh Thị C, C cũng là người nghiện ma túy. Khoảng tháng 12/2015, T và C thuê phòng trọ không số, nhà trọ BH thuộc tổ x, ấp B, xã A, thị xã Bến Cát để chung sống như vợ chồng. Khoảng tháng 3/2016, T bắt đầu mua bán ma túy. Khi các người nghiện cần mua ma túy thì liên lạc thông qua số điện thoại 01654.771.xxx của T, sau đó đến phòng trọ mua hoặc T đem ma túy đến địa điểm hẹn bán.
Lúc 13 giờ 58 phút ngày 14/4/2016, Ngô Văn T.A sử dụng số điện thoại 0962.204.xxx gọi vào số điện thoại 01654.771.xxx của T hỏi mua 300.000 đồng ma túy tổng hợp (ma túy đá). T đồng ý và kêu T.A đến phòng trọ của T để mua bán. Khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, T.A điều khiển xe mô tô Yamaha Nouvo biển số 69B1-067.xx đến phòng trọ của T thì thấy T mặc quần đùi, cởi trần đang ngồi trên võng bấm điện thoại. Huỳnh Thị C đang ngồi dưới nền nhà gần cửa ra vào. Nguyễn Vũ Tr, sinh năm 1982 đang ngồi trên tấm phản gỗ trong phòng. T.A nói với T “lấy cho mình cái 3 xị” (01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng). T lấy tiền của T.A rồi cầm 01 bịch ma túy đá để xuống mặt bàn nhựa màu đỏ trong phòng bên cạnh võng nơi T đang ngồi để T.A lấy. T.A nhìn thấy bịch ma túy đá T vừa để xuống bàn thì lại lấy cầm ở tay rồi ra về. Lúc bước ra khỏi cửa phòng, T.A rủ Tr cùng về (T.A và Tr có quen biết từ trước). Khi ra khỏi phòng trọ của T, T.A điều khiển xe chạy trước còn Tr điều khiển xe mô tô hiệu Nouvo LX (không rõ biển số) chạy theo sau cách T.A khoảng 50 mét. Khi T.A rời khỏi nhà T được khoảng 200 mét thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát kiểm tra và thu giữ được: 01 (một) bịch nylon hàn kín bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể, bên ngoài quấn xung quanh bằng giấy màu trắng (M1). Tr thấy T.A bị kiểm tra nên bỏ đi.
Căn cứ tài liệu chứng cứ thu thập được, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát đã tiến hành bắt khẩn cấp và khám xét chỗ ở của Nguyễn Hoàng T. Quá trình bắt giữ, Nguyễn Hoàng T đã sử dụng dao chống đối và bẻ điện thoại hiệu Nokia 1202, sim số 01654.771.xxx. Tại biên bản khám xét nơi ở đối với Nguyễn Hoàng T thu giữ: 01 cuộn giấy trắng bên trong có chứa 01 (một) bịch nylon hàn kín chứa chất màu trắng dạng tinh thể thu giữ góc bên trái, cách cửa ra vào khoảng 02m hướng từ ngoài vào phòng (M2).

Quá trình điều tra, Nguyễn Hoàng T không thừa nhận đã bán ma túy, nhưng Nguyễn Vũ Tr, Ngô Văn T.A, Nguyễn Văn X khai nhận đã nhiều lần mua ma túy từ T cụ thể như sau:
- Nguyễn Hoàng T bán ma túy cho Nguyễn Vũ Tr 02 (hai) lần gồm:

+ Lần thứ nhất: Vào khoảng 16 giờ ngày cuối tháng 3/2016, Tr mua của T 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng tại khu vực vườn cao su gần cổng x Khu Công nghiệp R.B thuộc ấp L, xã A, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

+ Lần thứ hai: Vào khoảng 19 giờ ngày 05/4/2016, Tr mua của T 01 bịch ma túy đá giá 200.000 đồng tại khu vực nghĩa địa cách phòng trọ của T khoảng 100 mét thuộc ấp RB, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Cả 02 lần mua trên đều không có ai chứng kiến và Tr sử dụng một mình hết số ma túy mua được. Ngoài ra, lúc 14 giờ 20 phút ngày 14/4/2016, Tr đến phòng trọ của Nguyễn Hoàng T để kêu T góp tiền đi thăm người bạn tên TN bị tai nạn giao thông thì chứng kiến T bán ma túy cho Ngô Văn T.A tại phòng trọ, lúc này có cả Huỳnh Thị C cũng có mặt tại phòng trọ.

- Nguyễn Hoàng T bán ma túy cho Nguyễn Văn X 03 (ba) lần gồm:

+ Lần thứ nhất: Vào khoảng 20 giờ ngày giữa tháng 3/2016. X mua của T 01 bịch ma túy đá giá 200.000 đồng tại khu vực trước cổng 2 của Khu Công nghiệp RB thuộc ấp RB, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

+ Lần thứ hai: Vào khoảng 17 giờ một ngày cuối tháng 3/2016. X mua của T 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng tại khu vực trước cổng x của Khu Công nghiệp RB thuộc ấp RB, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

+ Lần thứ ba: Vào khoảng 22 giờ 30 ngày 06/4/2016. X mua của T 01 bịch ma túy đá giá 200.000 đồng tại khu vực trước cổng x của Khu Công nghiệp RB thuộc ấp RB, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Cả 03 lần mua trên đều không có ai chứng kiến và X sử dụng một mình hết số ma túy mua được.

- Nguyễn Hoàng T bán cho Ngô Văn T.A khoảng 20 lần. Mỗi lần 01 bịch ma túy đá với giá từ 300.000 đồng đến 600.000 đồng tại khu vực trước cổng x của Khu Công Nghiệp RB thuộc ấp RB, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. T.A chỉ nhớ 02 lần cuối cụ thể như sau:

+ Lần thứ nhất: Vào khoảng 20 giờ ngày 13/4/2016, T.A gọi điện cho T hỏi mua 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng. T đồng ý và kêu T.A đến đường hẻm đối diện Trung tâm y tế thị xã Bến Cát, thuộc Khu phố x, phường P, thị xã Bến Cát để giao dịch mua bán ma túy và không có ai chứng kiến, T.A sử dụng một mình hết số ma túy mua được.

+ Lần thứ hai: Là lần T.A bị bắt quả tang ngày 14/4/2016 theo nội dung cáo trạng đã nêu.  

Theo Kết luận Giám định số 929/GĐ-PC54 ngày 20/4/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:

- Một bịch nylon hàn kín (M1) có tinh thể màu trắng được niêm phong của Công an xã AT, thị xã Bến Cát gửi đến giám định: Có thành phần Methamphetamine, trọng lượng: 0,1105g.

- Một bịch nylon hàn kín (M2) có tinh thể màu trắng  được niêm phong của Công an xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, gửi đến giám định: Có thành phần Methamphetamine, trọng lượng: 0,0424g.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 182/2016/HSST ngày 07/12/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy; Áp dụng Khoản 1, Điều 194; Khoản 2, Điều 46; Điểm g, Khoản 1, Điều 48 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 04 năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày14/4/2016.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/12/2016, bị cáo Nguyễn Hoàng T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt (đơn kháng cáo trong thời hạn luật định).

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm kết luận: Xác định tội danh, điều luật Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và áp dụng đối với bị cáo T là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Mức hình phạt 04 năm tù đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo  Nguyễn Hoàng T giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát đối với bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hoàng T có lời khai như tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo thừa nhận bản thân nghiện ma túy nên đã mua ma túy đá về cất giữ trong phòng trọ để sử dụng và ngày 14/4/2016 bị cáo bị Công an thị xã Bến Cát khám xét, bắt giữ tại nhà trọ cùng với bịch ma túy đá. Bị cáo không thừa nhận hành vi bán ma túy cho Ngô Văn T.A như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên. Bị cáo xác định bản án sơ thẩm đối với bị cáo là không oan, bị cáo chỉ yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mặc dù bị cáo không thừa nhận hành vi bán ma túy đá cho Ngô Văn T.A vào ngày 14/4/2016, nhưng căn cứ vào lời khai của Ngô Văn T.A và Nguyễn Vũ Tr tại Cơ quan cảnh sát điều tra, đủ cơ sở xác định: Ngày 14/4/2016, tại nhà trọ tại Nhà trọ BH, tổ x, ấp RB, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Hoàng T đã có hành vi bán cho Ngô Văn T.A 01 bịch nylon hàn kín bên trong có thành phần Methamphetamine, trọng lượng 0,1105g với giá 300.000 đồng, có sự chứng kiến của Nguyễn Vũ Tr. Sau khi mua ma túy, T.A và Tr cùng ra về, trên đường đi, T.A bị Công an thị xã Bến Cát kiểm tra bắt giữ. Từ lời khai của T.A, Công an thị xã Bến Cát đã thực hiện việc bắt giữ và khám xét nơi ở của bị cáo Nguyễn Hoàng T thu giữ 01 bịch ma túy tổng hợp khác. Hành vi của Nguyễn Hoàng T đã đủ yếu tố cấu T tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Khoản 1, Điều 194 Bộ luật Hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1, Điều 194 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây tác động xấu cho xã hội, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức, bị cáo biết được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Dương các tội phạm liên quan về ma túy đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, mức hình phạt 04 năm tù mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là phù hợp với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng T. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm là có cơ sở nên được chấp nhận.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ Điểm a, Khoản 2, Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng T giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 182/2016/HSST ngày 07/12/2016 của Tòa án nhân Dân thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương.
Áp dụng Khoản 1, Điều 194; Khoản 2, Điều 46; Điểm g, Khoản 1, Điều48 Bộ luật Hình sự,Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2016.

2. Án phí hình sự phúc thẩm:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo T phải nộp 200.000 đồng.

3. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

 

Nơi nhận:

- VKSND tỉnh BD;

 

 

1

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

- Phòng PV 27 CA tỉnh BD;

1

 

- Trại Tạm giam CA tỉnh BD;

1

 

- TAND thị xã Bến Cát;

2

 

- VKSND thị xã Bến Cát;

1

 

- C.cục THADS thị xã Bến Cát;

1

 

- CQCSĐT CA thị xã Bến Cát;

1

 

- Bị cáo;

1

 

- Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương;

1

 

- Lưu HS; Tổ HCTP.

3

Trần Văn Luông

Tên bản án

24/2017/HSPT

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án