TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1

 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 Bản án số: 28/2013/HSST

Ngày 04/2/2013

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Ánh Hồng

Các Hội thẩm nhân dân:

1.Ông    Đặng Mỹ Hạnh

2. Bà   Trần Thị Ngân

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Trần Đức Lê - Cán bộ Tòa án quận 1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 – Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Ông  Nguyễn Thủy Chung - Kiểm sát viên.

Hôm nay, ngày 04 tháng 02 năm 2013 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1 - số 06 Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 284/2012/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2012 đối với bị cáo:

   1. Trần Thị Thảo; giới tính: Nữ; sinh năm 1964 tại Sài Gòn; hộ khẩu thường trú: 304/8B Bùi Đình Túy, Phường 12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 2/12; con ông Trần Văn Nhu và bà Nguyễn Thị Út; tiền án: Ngày 18/11/2003 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” ; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam ngày 03/04/2012; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Đỗ Anh Tuấn; giới tính: Nam; sinh ngày 22/4/1956 tại Sài Gòn; hộ khẩu thường trú: 74/9 Phan Đăng Lưu, Phường 5, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; trình độ học vấn: 10/12; con ông Đỗ Đức Tâm và bà Trần Thị Sâm; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam ngày 03/04/2012;  bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Văn Hùng; giới tính: Nam; sinh ngày 08/10/1963 tại Sài Gòn; hộ khẩu thường trú: 288/37 Nơ Trang Long, Phường 12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 03/12; con ông Nguyễn Đức Quân và bà Nguyễn Thị Khoát; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị bắt giữ ngày 03/04/2012 đến ngày 13/4/2012 thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Thị Thanh Trước; giới tính: Nữ; sinh ngày 02/09/1956 tại Sài Gòn; hộ khẩu thường trú: 4B/312 Nhật Tảo, Phường 4, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh – chỗ ở hiện nay: 375/4 Nguyễn Duy Dương, Phường 4, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Văn Được và bà Đỗ Thị Xẩm; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị bắt giữ ngày 03/04/2012 đến ngày 13/4/2012 hủy bỏ biện pháp tạm giam - lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị công an quận Tân Phú bắt giữ: 01/8/2012 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5.  Nguyễn Thị Thu Hồng; giới tính: Nữ; sinh ngày 21/3/1964 tại Đồng Tháp; hộ khẩu thường trú: 181/20/5 Tân Phước, Phường 6, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 04/12; con ông Nguyễn Văn Thế và bà Phan Thị Ngữ; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị bắt giữ ngày 03/04/2012; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6.  Nguyễn Thị Thanh Mai; giới tính: Nữ; sinh ngày 23/02/1975 tại Đồng Tháp; hộ khẩu thường trú: 294/26 Bùi Đình Túy, Phường 12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh – chỗ ở hiện nay: 334/64/164 Chu Văn An, Phường 12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 07/12; con ông Nguyễn Văn Tường và bà Nguyễn Thị Bưởi; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị bắt giữ ngày 03/04/2012 đến ngày 13/4/2012 hủy bỏ biện pháp ngăn chặn - lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

7.  Lê Hồng Hạnh; giới tính: Nữ; sinh năm1966 tại Sài Gòn; hộ khẩu thường trú: 36/6 Quang Trung, Phường 8, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh – chỗ ở hiện nay: 491/70 Lê Quang Định, Phường 1, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; con ông Lê Văn Ngợi và bà Mai Thị Sen; tiền án: Ngày 31/10/1998 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (Bản án số: 2225/HSST ngày 31/10/1998). Bị cáo đã bỏ trốn chưa chấp hành án đến ngày 06/4/2000, công an Thành phố Hồ Chí Minh ra lệnh truy nã số: 309/LTN đối với Lê Hồng Hạnh; tiền sự: Không; Bị bắt giữ ngày 03/04/2012 đến ngày 13/4/2012 hủy bỏ biện pháp ngăn chặn - lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị bắt tạm giam: 06/11/2012; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

8.  Lê Thị Bằng Huyền; giới tính: Nữ; sinh ngày 14/03/1974 tại Huế; hộ khẩu thường trú: 236/5 Cô Giang, Phường 2, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 09/12; con ông Lê Vẽ và bà Phan Thị Huệ; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

          Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:   1/ Hoàng Trần Minh Nguyệt; trú số 50 Võ Văn Tần, Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt); 2/ Nguyễn Thị Hường; trú số: 31/2 Bis Nguyễn Văn Lượng, Phường 16, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt); 3/ Nguyễn Hùng Hải; trú số: 13 đường số 2, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

 

 

NHẬN THẤY:

Các bị cáo Trần Thị Thảo, Đỗ Anh Tuấn, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Trước, Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Thị Thanh Mai, Lê Hồng Hạnh và Lê Thị Băng Huyền đã bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 – Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

   Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 03/04/2012, Đội 5 PC45 công an Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra bắt quả tang tại lầu 1 nhà số: 53/33 Trần Khánh Dư, phường Tân Định, Quận 1 gồm các đối tượng: Lê Hồng Hạnh, Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Thị Thảo, Út Anh và Đỗ Anh Tuấn đang đánh bài “Binh xập xám” ăn tiền, Nguyễn Thị Thanh Trước là người chia bài với mức thắng thua được quy định 01 chi bằng 100.000 đồng; 01 chến bằng 3.000.000 đồng (tương đương 30 chi) trong sòng bài gồm có 04 tụ, mỗi tụ quy định là 3.000.000 đồng. Ngoài ra, PC45 công an Thành phố Hồ Chí Minh còn bắt giữ các đối tượng gồm: Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Hùng Hải và Chu Quỳnh Thu cùng tang vật bàn giao cho công an phường Tân Định, Quận 1 lập biên bản phạm tội quả tang và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra – công an Quận 1 điều tra xử lý theo thẩm quyền. Trong quá trình điều tra truy tố, công an Quận 1 xác định Lê Thị Băng Huyền có tham gia đánh bạc “Binh xập xám” ăn tiền vào ngày 03/4/2012 tại địa chỉ nhà số: 53/33/ Trần Khánh Dư, phường Tân Định, Quận 1.

Quá trình điều tra, các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội của mình, cụ thể:

Trần Thị Thảo khai nhận: vào khoảng tháng 3/2012, Thảo cùng với đối tượng chị Nghiêm, anh Dư, chị Ngân (03 đối tượng này chưa rõ nhân thân lai lịch) thuê mặt bằng nhà số: 53/33 Trần Khánh Dư (do Nguyễn Thị Thu Hồng đứng tên hợp đồng thuê nhà) địa điểm, mua sắm các dụng cụ đánh bài để đứng ra tổ chức đánh bạc, liên lạc với các con bạc đến hẹn nhau đánh bạc. Từ ngày 27/3/2012 đến ngày 03/4/2012, thời gian tổ chức đánh bạc là khoảng 16 giờ đến khuya hoặc là sáng ngày hôm sau. Thảo có nhiệm vụ quản lý sòng bài, đổi phỉnh và thu tiền xâu. Với hình thức này, Thảo quy định thu tiền xâu như sau: 01 khung là 04 chến; 01 chến ăn thua 30 chi; 01 khung lấy tiền xâu là 1.600.000 đồng (đối với 01 chến bằng 3.000.000 đồng) hoặc 2.400.000 đồng (đối với chến 6.000.000 đồng) Thảo cho người chia bài (Hùng hoặc Trước) mỗi ngày từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng; trả công cho Nguyễn Thị Thu Hồng từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, một ngày Thảo thu được tiền xâu từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng. Sau khi trừ chi phí như tiền ăn, uống của các con bạc thì số tiền thu nhập từ việc lấy xâu được 2.00.000 đồng đến 3.000.000 đồng, Thảo được hưởng 70%, đối tượng Ngân hưởng 30% - ngày 03/4/2012 Thảo mang theo 3.500.000 đồng để đánh bạc, tiền xâu được 3.000.000 đồng; Thảo đánh được 8 chến đến chến thứ 9 thì bị công an bắt quả tang và thu giữ 2.850.000 đồng.

Đỗ Anh Tuấn khai nhận: được Thảo thuê đến chia bài được 3 lần. Hết 01 khung Tuấn được hưởng 01 chi (100.000 đồng đến 150.000 đồng), thu nhập trung bình từ 200.000 đồng -  300.000 đồng/1ngày. Ngày 3/4/2012, Tuấn chia bài cho Thảo, Huyền, Châu (chưa rõ lai lịch) và Phượng (chưa rõ lai lịch) đánh 04 chến thì đến lượt của Trước chia bài. Khi Lê Thị Băng Huyền có việc đi ra ngoài, Tuấn vào thay đánh được 02 ván bài thì bị công an bắt quả tang và thu giữ 3.500.000 đồng, trong đó có 100.000 đồng vừa được hưởng từ việc chia bài cho Thảo trả.

Nguyễn Văn Hùng khai nhận: được Thảo thuê chia bài được 03 lần; thu nhập trung bình từ 100.000 đồng – 200.000 đồng/1ngày. Ngày 3/4/2012 đã chia bài được 04 chến thì bị công an bắt quả tang và thu 400.000 đồng, trong đó có 100.000 đồng tiền công được hưởng từ việc chia bài.

Nguyễn Thị Thanh Trước khai nhận: được Thảo thuê đến chia bài được 03 lần thu nhập trung bình từ 100.000 đồng – 200.000 đồng/1ngày. Ngày 3/4/2012 đang chia bài chến đầu tiên thì bị công an bắt quả tang và thu giữ 500.000 đồng.

Nguyễn Thị Thu Hồng khai nhận: đứng tên hợp đồng thuê nhà 53/33 Trần Khánh Dư, Quận 1 để Trần Thị Thảo tổ chức đánh bài và được Thảo thuê làm phục vụ ăn uống và nghĩa vụ cảnh giới cho sòng bạc được 03 ngày; thu nhập trung bình khoảng 200.000 đồng/1ngày.

Nguyễn Thị Thanh Mai khai nhận: ngày 3/4/2012, lần đầu tiên đến đánh bài ăn tiền tại nhà 53/33 Trần Khánh Dư. Mai hùm với Lê Hồng Hạnh thành 01 tụ đánh được 03 chến, thắng được 3.000.000 đồng, chia cho Hạnh 2.000.000 đồng; đang đánh chến thứ 4 thì bị công an bắt quả tang và thu giữ 2.700.000 đồng trong đó có 1.000.000 đồng do đánh bài thắng.

Lê Hồng Hạnh khai nhận: đến đánh bài tại nhà 53/33 Trần Khánh Dư được 03 lần, ngày 03/4/2012 Hạnh hùm với Mai 01 tụ đánh được 03 chến, thắng 3.000.000 đồng và được Mai chia 2.000.000 đồng; đang đánh tiếp chến thứ 4 thì bị công an bắt quả tang và thu giữ 3.050.000 đồng trong đó có 2.000.000 đồng do đánh bạc thắng.

Lê Thị Băng Huyền khai nhận: ngày 03/4/2012 lần đầu tiên đến đánh bài tại nhà số 53/33 Trần Khánh Dư và đánh được 04 chến, thắng được 1.900.000 đồng. Sau đó do có công việc, Huyền không chơi nữa đi về trước khi công an đến bắt quả tang và có gửi lại tại nhà 53/33 Trần Khánh Dư 01 chiếc xe gắn máy Attila (màu trắng biển số: 59E1 – 220.44). Số tiền có được từ việc đánh bài thắng, Huyền đã tiêu xài hết.

Đối với các đối tượng: Chu Quỳnh Thu, Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Hùng Hải không tham gia vào việc đánh bài, tổ chức đánh bài và không có hưởng lợi nên cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự. Riêng các đối tượng Ngân, Châu, Phượng, Út Anh có hành vi tổ chức đánh bài hoặc đánh bài nhưng do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên cơ quan điều tra chưa có cơ sở để truy tìm nếu sau này truy tìm được làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số: 09/KSĐT ngày 24/12/2012 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 – Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Thị Thảo và Đỗ Anh Tuấn về tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 và khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Trước và Nguyễn Thị Thu Hồng về tội “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh Mai, Lê Hồng Hạnh và Lê Thị Băng Huyền bị truy tố về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên Tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

XÉT THẤY :

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo cũng đã khai nhận về hành vi phạm tội của mình như trên đã nêu. Tức là chính bị cáo Trần Thị Thảo và Đỗ Anh Tuấn đã trực tiếp thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc và tham gia đánh bạc tại nhà số 53/33 Trần Khánh Dư, phường Tân Định, Quận 1 và đã bị bắt quả tang vào lúc 22 giờ 45 phút ngày 03/4/2012. Còn bị cáo Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Trước và Nguyễn Thị Thu Hồng thì cũng đã khai nhận chính bị cáo Hùng và Trước là người đã trực tiếp chia bài trong sòng bạc do Thảo tổ chức được Thảo trả công mỗi ngày thu được từ 100.000 đồng – 200.000 đồng. Còn Hồng là người có nhiệm vụ phục vụ ăn uống cho những người đến đánh bạc và cảnh giới bên ngoài được Thảo trả công từ 100.000 đồng – 200.000 đồng/1ngày. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh Mai, Lê Hồng Hạnh và Lê Thị Băng Huyền cũng đã khai nhận đến số nhà 53/33 đánh bạc ăn tiền thì bị bắt quả tang vào lúc 22 giờ 45 phút ngày 03/4/2012. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo cũng phù hợp với lời khai của các nhân chứng và những chứng cứ khác phản ánh có trong hồ sơ. Xét thấy đã có đủ căn cứ để kết luận Trần Thị Thảo và Đỗ Anh Tuấn về tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 và khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Còn các bị cáo Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Trước và Nguyễn Thị Thu Hồng can tội "Tổ chức đánh bạc"  theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Nguyễn Thị Thanh Mai, Lê Hồng Hạnh và Lê Thị Băng Huyền can tội "Đánh bạc" được quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án này là cố ý. Bởi lẽ, các bị cáo cũng biết rất rõ việc làm trên là trái pháp luật nhưng do và muốn thảo mãn với động cơ cá nhân của mình nên đã bất chấp, xem thường pháp luật của nhà nước vẫn cố tình phạm tội. Hành vi của các bị cáo “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự chung, gây mất trật tự trị an cho xã hội. Xét về nhân thân bị cáo Thảo vào năm 2003 cũng đã 01 lần bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” chưa được xóa án tích thì nay lại tiếp tục tái phạm. Đối với bị cáo Trước sau khi thực hiện hành vi phạm tội ở Quận 1 được cơ quan điều tra – công an Quận 1 cho tại ngoại điều tra nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tự răng mình mà tiếp tục qua địa bàn quận Tân Phú đánh bạc nên bị bắt vào ngày 01/8/2012 và đến ngày 30/11/2012 đã bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 15 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Còn bị cáo Hạnh vào năm 1998 đã bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” bị cáo đã bỏ trốn chưa chấp hành hình phạt và công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định truy nã đến ngày 03/4/2012 thì bị cáo tiếp tục tái phạm. Riêng các bị cáo khác thì chưa có tiền án, tiền sự, do đó thiết nghĩ rằng đối với các  bị cáo cũng cần phải có mức án thỏa đáng tương xứng với hành vi phạm tội của mỗi bị cáo để có tác dụng  giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay   các bị cáo cũng thành khẩn khai nhận tội, có ăn năn hối cải, đối với bị cáo Tuấn, Hùng, Hồng, Mai, Huyền không có tiền án, tiền sự. Do đó nghĩ cũng cần phải xem xét lượng giảm cho mỗi bị cáo một phần mức án. Như vậy, ngoài việc bị cáo Trước và bị cáo Hạnh phải chịu chấp hành hình phạt của bản án này thì còn phải chấp hành thêm hình phạt của bản án trước chưa chấp hành. Tổng hợp chung buộc bị cáo Trước và Hạnh phải chấp hành (bản án số: 290/2012/HSST ngày 30/11/2012 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú,Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Trước và bản án số: 2225/HSST ngày 31/10/1998 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Hạnh).

Tang vật thu giữ gồm có: 06 bộ bài loại 52 lá, 01 cái tô, 10 (mười) hột xí ngầu, 01 (một) cái bàn, 04 (bốn) cái ghế, 01 (một) miếng vải dùng để trả bàn, 40 (bốn mươi) đồng xu bằng kim loại, mỗi đồng xu tương đương 01 chi, 08 (tám) phỉnh bằng nhựa tương đương 10 chi, 03 (ba) phỉnh bằng nhựa dán chữ B màu đỏ tượng trưng cho Bô, 01 (một) phỉnh bằng nhựa dán chữ K màu đỏ tượng trưng cho Kinh, 01 (một) phỉnh bằng nhựa dán chữ C màu xanh tượng trưng cho Cái. Đây là những dụng cụ dùng phục vụ cho việc đánh bạc, không có giá trị sử dụng cho nên cần phải tịch thu tiêu hủy toàn bộ.

Thu giữ cuả Chu Quỳnh Thu 01 xe máy Air Blade biển số: 59E1 – 16870, số khung: FLHJF2706BY210711, số máy: JF27E – 0985324 và 01 máy điện hoại di động Iphone, số Imei: 011937006540520 là do bà Nguyễn Thị Hường (mẹ của Thu) làm chủ sở hữu. Xét thấy không có liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra xét trả lại chiếc xe và máy điện thoại di động nói trên cho bà Hường là có cơ sở nên Tòa án cũng không cần phải xét nữa. Thu giữ của bị cáo Trước 01 điện thoại di động Sam Sung, số Imei:358571/685734/8, số tiền 500.000 đồng và 01 xe gắn máy Max mang biển số: 52U7 – 7059, số máy: VZS152FMH231280, số khung: RNGDCH2UM71001880. Xét thấy không có liên quan đến vụ án nghĩ nên cần xem xét trả lại cho bị cáo số tài sản trên, nhưng trước mắt cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này. Thu giữ của Nguyễn Văn Hùng 01 máy điện thoại di động Nokia 2730, số Imei: 358314/03/395121/4, 01 xe gắn máy hiệu Attila màu đen biển số: 59S1 – 03561, số khung: RLGH125GD – 6D006239, số máy: VMM9BE – D006239 và số tiền 400.000 đồng (trong đó 100.000 đồng là tiền chia bài mà có) cho nên cần xét trả lại cho bị cáo số tài sản này nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này. Riêng 100.000 đồng là tịch thu sung vào công quỹ nhà nước. Thu giữ của anh Nguyễn Hùng Hải 01 máy điện thoại di động Nokia 8210, số Imei: 350115/30/092348/1, số tiền 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng), đây là tài vật riêng không có liên quan đến vụ án này nên cần trả lại cho anh Hải. Riêng chiếc xe gắn máy hiệu Wave màu xanh, biển số: 51F7 – 4051, số khung: LLCXCHLLOY1010343, số máy: LCE110A – 00510743 của anh Hải. Qua xác minh chiếc xe nói trên là do bà Hoàng Trần Minh Nguyệt đứng tên sở hữu, nhưng đã bán lại cho anh Nga (không rõ lai lịch) vào năm 2006 chưa làm thủ tục sang tên. Năm 2006 Nguyễn Hùng Hải mua lại chiếc xe nói trên của 01 người không rõ nhân thân, lai lịch và đã làm mất giấy tờ đăng ký xe. Do đó nghĩ nên cần phải thông báo trong một thời gian nhất định nếu không ai có giấy tờ chủ quyền hợp lệ đến nhận thì sẽ tịch thu sung vào công quỹ nhà nước. Thu giữ của bị cáo Đỗ Anh Tuấn 01 máy điện thoại Nokia 6233, số Imei:356283/01/507912/4 và số tiền 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng). Trong đó có 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng) là tiền do việc chia bài mà có và 3.400.000 đồng là tiền dùng để đánh bài cho nên cần phải tịch thu sung vào công quỹ số tiền 3.500.000 đồng. Còn chiếc máy điện thoại di động Nokia không có liên quan đến vụ án cần xem xét trả lại cho bị cáo Tuấn nhưng trước mắt cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này. Thu giữ của bị cáo Lê Hồng Hạnh 01 điện thoại di động Nokia 2730, số Imei:357978/03/187165/6 và số tiền 3.050.000 đồng (Ba triệu không trăm năm mươi ngàn đồng), số tiền này bị cáo dùng để đánh bạc cho nên cần phải tịch thu sung vào công quỹ nhà nước, còn chiếc máy điện thoại di động không có liên quan đến vụ án cần xem xét trả lại cho bị cáo Hạnh nhưng trước mắt cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này. Thu giữ của bị cáo Mai 01 máy điện thoại di động Nokia 2610, số Imei: 356259/01/821313/4 và số tiền 2.700.000 đồng (Hai triệu bảy trăm ngàn đồng), đây là số tiền dùng để đánh bạc cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước, còn chiếc máy điện thoại di động Nokia trả lại cho bị cáo, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Thu giữ của bị cáo Thảo 01 máy điện thoại di động Nokia 6700, số Imei: 353790044658127 và số tiền 2.850.000 đồng (Hai triệu tám trăm năm mươi ngàn đồng) đây là số tiền do thu tiền xâu đánh bài và dùng để đánh bạc và chiếc máy điện thoại di động dùng để liên lạc để đánh bạc cho nên cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước. Thu giữ của bị cáo Hồng 01 điện thoại di động Nokia 1800, số Imei: 359051/04/330446/8 và số tiền 650.000 đồng (sáu trăm năm mươi ngàn đồng), xét thấy không có liên quan đến vụ án nghĩ nên cần xét trả lại cho bị cáo Hồng, nhưng trước mắt cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này. Riêng chiếc xe gắn máy hiệu Dream II màu nho mang biển số: 60K3 – 2028, số khung: DR100 – 01030709, số máy: LC150FM – 01030709 là do chị Trần Thị Lơ đứng tên chủ sở hữu, nhưng hiện nay chị Lơ không còn cư trú tại địa phương. Cơ quan điều tra công an quận 1 cũng đã đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe trên nhưng đến nay chưa có kết quả. Do đó cần tiếp tục thông báo trong một thời gian nhất định nữa nếu không ai có giấy tờ chủ quyền hợp lệ chiếc xe nói trên đến nhận thì sẽ tịch thu sung vào công quỹ nhà nước. Thu giữ của bị cáo Huyền 01 xe gắn máy mang biển số 59E1 – 22044, số khung: RLGKA11AD – CD048115, số máy: VMVUAA – D048115, đây là xe của bị cáo Huyền đứng tên chủ sở hữu, xét thấy không có liên quan đến vụ án nghĩ nên cần xem xét trả lại cho bị cáo nhưng trước mắt cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

Trong quá trình đánh bạc ngày 03/4/2012 Huyền đã thu lợi bất chính từ việc đánh bạc thắng 1.900.000 đồng. Bị cáo Hồng thu nhập từ việc tổ chức đánh bạc được 300.000 đồng cho nên cần buộc bị cáo Huyền và Hồng nộp lại số tiền trên để sung vào công quỹ nhà nước.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 248 và khoản 3 Điều 249 của bộ luật hình sự auy định về việc áp dụng hình phạt bổ sung, tức là phạt tiền. Do đó nghĩ nên cũng cần xem xét phạt mỗi bị cáo một số tiền nhất định theo luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Thảo và Đỗ Anh Tuấn phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”; Các bị cáo Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Thị Thanh Trước phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và các bị cáo Nguyễn Thị Thanh Mai, Lê Hồng Hạnh, Lê Thị Băng Huyền phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm a khoản 1 Điều 50 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Xử phạt: Trần Thị Thảo 04 (bốn) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình chung của 02 tội buộc bị cáo Trần Thị Thảo phải chấp hành là 05 năm tù.  

Thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ: 03/4/2012.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản2 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 50 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Xử phạt: Đỗ Anh Tuấn 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội tội “Tổ chức đánh bạc” và 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình chung của 02 tội buộc bị cáo Đỗ Anh Tuấn phải chấp hành là 02 năm 03 tháng tù.  

Thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ: 03/4/2012.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Xử phạt: Nguyễn Thị Thanh Trước 02 (hai) năm tù và cộng với 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù của bản án trước chưa chấp hành xong (Bản án số: 290/2012/HSST ngày 30/11/2012 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh). Tổng hợp hình chung của 02 bản án buộc bị cáo Trước phải chấp hành là 03 năm 03 tháng tù.  

Thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ: 1/8/2012 nhưng được khấu trừ đi thời gian tạm giữ trước đây là từ ngày 3/4/2012 đến ngày 13/4/2012.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Xử phạt: Nguyễn Thị Thu Hồng 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.  

Thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ: 3/4/2012.

- Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Xử phạt: Lê Hồng Hạnh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù và cộng với 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù của bản án trước chưa chấp hành xong (Bản án số: 2225/HSST ngày 31/10/1998 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh). Tổng hợp hình chung của 02 bản án buộc bị cáo Lê Hồng Hạnh phải chấp hành là 03 năm tù.  

Thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ: 06/11/2012 nhưng được khấu trừ đi thời gian tạm giữ trước đây (từ ngày 3/4/2012 đến ngày 13/4/2012) và (từ ngày 07/12/1997 đến ngày 17/12/1997).

- Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Xử phạt: Nguyễn Thị Thanh Mai 01 (một) năm tù nhưng được khấu trừ đi thời gian tạm giữ trước đây là 11 ngày (từ ngày 3/4/2012 đến ngày 13/4/2012), còn lại 11 tháng 19 ngày tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 11 tháng 08 ngày tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Thanh Mai cho ủy ban nhân dân Phường 12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh quản lý và giáo dục trong thời gian thử thách.

- Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Xử phạt: Lê Thị Băng Huyền 01 (một) năm tù nhưng được hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Lê Thị Băng Huyền cho ủy ban nhân dân Phường 2, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh quản lý và giáo dục trong thời gian thử thách.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Xử phạt: Nguyễn Văn Hùng 01 (một) năm 03 (ba).

Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án, nhưng được khấu trừ đi thời gian tạm giữ trước đây là (từ ngày 3/4/2012 đến ngày 13/4/2012).

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Tịch thu tiêu hủy gồm: 06 bộ bài loại 52 lá, 01 cái tô, 10 (mười) hột xí ngầu, 01 (một) cái bàn, 04 (bốn) cái ghế, 01 (một) miếng vải dùng để trải bàn, 40 (bốn mươi) đồng xu bằng kim loại, 08 (tám) phỉnh bằng nhựa, 03 (ba) phỉnh bằng nhựa dán chữ B màu đỏ, chữ K màu đỏ và chữ C màu xanh (Theo phiếu nhập vật chứng số: 115/12/PNK – CAQ1, ngày 09/4/2012 của công an Quận 1).

- Áp dụng khoản 1 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Trả lại cho bị cáo Trước 01 điện thoại di động Sam Sung, số Imei:358571/685734/8, số tiền 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) và 01 chiếc xe gắn máy hiệu Max mang biển số: 52U7 – 7059, số máy: VZS152FMH231280, số khung: RNGDCH2UM71001880, nhưng trước mắt cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Hùng 01 máy điện thoại di động Nokia 2730, số Imei: 358314/03/395121/4 và 01 xe gắn máy hiệu Attila màu đen biển số: 59S1 – 03561, số khung: RLGH125GD – 6D006239, số máy: VMM9BE – D006239 và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

Trả lại cho bị cáo Đỗ Anh Tuấn 01 máy điện thoại Nokia 6233, số Imei:356283/01/507912/4 nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

Trả lại cho bị cáo Lê Hồng Hạnh 01 điện thoại di động Nokia 2730, số Imei:357978/03/187165/6 nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

Trả lại cho bị cao Nguyễn Thị Thanh Mai 01 máy điện thoại di động Nokia 2610, số Imei: 356259/01/821313/4 nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thu Hồng số tiền 650.000 đồng (Sáu trăm năm mươi ngàn đồng) và 01 máy điện thoại di động Nokia 1800, số imei 359051/04/330446/8 nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

Trả lại cho bị cáo Lê Thị Băng Huyền 01 xe gắn máy mang biển số 59E1 – 22044, số khung: RLGKA11AD – CD048115, số máy: VMVUAA – D048115 nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

Trả lại cho anh Nguyễn Hùng Hải 01 máy điện thoại di động Nokia 8210, số Imei: 350115/30/092348/1, số tiền 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng), (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 Buộc bị cáo Lê Thị Băng Huyền nộp lại số tiền 1.900.000 đồng (Một triệu chín trăm ngàn đồng) và buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu Hồng nộp lại số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) để sung vào công quỹ nhà nước. Kể từ khi Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án nếu các bị cáo chưa thanh toán số tiền nói trên thì hàng tháng phải chịu thêm lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

- Áp dụng điểm a,b khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước số tiền 12.200.000 đồng (Mười hai triệu hai trăm ngàn đồng) và 01 máy điện thoại di động Nokia 6700, số Imei: 353790044658127 (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Đối với chiếc xe gắn máy hiệu Wave màu xanh, biển số: 51F7 – 4051, số khung: LLCXCHLLOY1010343, số máy: LCE110A – 00510743 và chiếc xe gắn máy hiệu Dream II màu nho mang biển số: 60K3 – 2028, số khung: DR100 – 01030709, số máy: LC150FM – 01030709 sẽ thông báo trong thời gian 03 tháng nếu không ai có giấy tờ chủ quyền hợp lệ đến nhận thì sẽ tịch thu sung vào công quỹ nhà nước (Theo phiếu nhập vật chứng như trên).

- Áp dụng khoản 3 điều 248 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phạt Nguyễn Thị Thanh Mai, Lê Hồng Hạnh và Lê Thị Băng Huyền mỗi bị cáo là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) để sung vào công quỹ nhà nước. Kể từ khi Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án nếu các bị cáo chưa thanh toán số tiền nói trên thì hàng tháng phải chịu thêm lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

- Áp dụng khoản 3 điều 249 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phạt Trần Thị Thảo, Đỗ Anh Tuấn, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Trước, Nguyễn Thị Thu Hồng mỗi bị cáo số tiền là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung vào công quỹ nhà nước. Kể từ khi Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án nếu các bị cáo chưa thanh toán số tiền nói trên thì hàng tháng phải chịu thêm lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

- Áp dụng Điều 98, 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009.

Án phí Hình sự sơ thẩm 200.000  đồng mỗi bị cáo nộp. 

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.  Riêng  bà Hường, bà Nguyệt và anh Hải vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản sao bản án được giao. Đã giải thích chỉ định án treo.

  Nơi nhận:

- Tòa án nhân dân Tp. HCM

- Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tp. HCM

- Viện Kiểm Sát Nhân Dân Q.1

- Thi Hành Án Q.1

- Công An Q.1

- Bị cáo. Lưu.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

 

 

Nguyễn Ánh Hồng

 

Tên bản án

Bản án số 28/2013/HSST về đánh bạc và tổ chức đánh bạc

Số hiệu 28/2013/HSST Ngày xét xử 04/2/2013
Bình luận án