QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 09/2013/HS-GĐT NGÀY 12/07/2013 VỀ VỤ ÁN HÌNH SỰ VŨ THANH ĐỨC PHẠM TỘI THAM Ô TÀI SẢN VÀ THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY THIỆT HẠI NGHIÊM TRỌNG ĐẾN TÀI SẢN CỦA NHÀ NƯỚC 

 

Ngày 12 tháng 7 năm 2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Vũ Thanh Đức sinh năm 1960; trú tại số 62 đường Nguyễn Đình Chiểu, phường Đồng Mỹ, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; khi phạm tội là Phó giám đốc Trung tâm phòng chống sốt rét - nội tiết tỉnh Quảng Bình; trình độ văn hóa:10/10; con ông Vũ Khắc Hưng và bà Trần Thị Thanh Vị; có vợ và 02 con; bị tạm giam từ ngày 22-6-2006 đến ngày 27-12-2006 và từ ngày 22-4-2008 đến 18-8-2008.

Ngoài ra, trong vụ án này còn có các bị cáo: Trần Quốc Tuấn, Đỗ Xuân Phong và Phan Thanh Phi đều bị kết án về tội “Tham ô tài sản”, Phạm Thị Hoa  Hồng bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước”.

NHẬN THẤY

Dự án Quỹ toàn cầu phòng, chống sốt rét (PCSR) là dự án của Tổ chức  phi chính phủ tài trợ, do Ban quản lý Dự án Bộ Y tế trực tiếp quản lý và điều hành, được triển khai thực hiện tại một số địa phương trên cả nước. Tỉnh Quảng Bình được phép thực hiện Dự án tại 112 xã thuộc 06 huyện, thời gian thực hiện từ năm 2005 đến năm 2009. Dự án ở Quảng Bình được thành lập ở hai cấp, gồm Ban quản lý Dự án tỉnh và các Tiểu ban Dự án tại 06 huyện.

Theo Quyết định số 3935/QĐ-UB ngày 18-11-2004 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình thì Ban quản lý Dự án tỉnh gồm các thành viên: bà Nguyễn Thị Ngọc Hà (Phó Giám đốc Sở Y tế) làm Trưởng ban, ông Nguyễn Đình Yến (Giám đốc Trung tâm phòng, chống sốt rét - nội tiết) làm Phó Trưởng ban, Vũ Thanh Đức (Phó Giám đốc Trung tâm phòng, chống sốt rét - nội tiết) làm Thư ký và Phạm Thị Hoa Hồng (Kế toán Trung tâm phòng, chống sốt rét - nội tiết) làm Kế toán. Ngoài ra, Ban quản lý Dự án còn phân công chị Trịnh Thị Tiện làm Thủ quỹ.

Trong thời gian từ tháng 01-2005 đến tháng 4-2006, Vũ Thanh Đức được bà Nguyễn Thị Ngọc Hà giao nhiệm vụ nhận tiền ứng trước rồi đến từng huyện để thực hiện việc chi trả cùng với Kế toán Phạm Thị Hoa Hồng. Lợi dụng cơ chế quản lý lỏng lẻo và những sơ hở trong quản lý dự án nên khi đến làm việc tại các Tiểu ban Dự án huyện, Vũ Thanh Đức trực tiếp nói với một số người trong các Tiểu ban Dự án huyện làm khống nhiều hóa đơn, chứng từ, khi thanh toán thì trích lại 50% khoản tiền đó cho Ban quản lý dự án tỉnh, 50% để cho Tiểu ban dự án cấp huyện. Với hình thức nêu trên, từ tháng 01 năm 2005 đến tháng 4 năm 2006, Vũ Thanh Đức đã cùng với Đỗ Xuân Phong, Trần Quốc Tuấn, Phan Thanh Phi và một số thành viên khác của 06 Tiểu ban dự án cùng nhau lập chứng từ, rút của Nhà nước 389.437.364 đồng để sử dụng vào nhiều mục đích, trong đó đã xác định được Đỗ Xuân Phong được chia 40.323.861 đồng, Trần Quốc Tuấn được chia 8.903.309 đồng, Phan Thanh Phi được chia 6.370.000 đồng, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (gồm 45 người) được chia từ 200.000 đồng đến 7.834.000 đồng, tổng cộng 126.746.330 đồng; còn lại 262.690.634 đồng, quá trình điều tra Đức khai nhận đã chia cho bà Nguyễn Thị Ngọc Hà 60.000.000 đồng, ông Nguyễn Đình Yến 50.000.000 đồng, Phạm Thị Hoa Hồng 54.000.000 đồng, chị Trịnh Thị Tiện 3.600.000 đồng, Đức sử dụng cá nhân 47.000.000 đồng, nhưng chỉ có chị Tiện khai đã nhận số tiền 3.600.000 đồng, còn lại những người khác không thừa nhận.

Tại Cáo trạng số 151/VKS-P1 ngày 10-10-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình truy tố Vũ Thanh Đức, Đỗ Xuân Phong, Trần Quốc Tuấn và Phan Thanh Phi đều về tội “Tham ô tài sản” theo Điều 278 Bộ luật hình sự; truy tố Phạm Thị Hoa Hồng về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” theo Điều 144 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 69/2007/HSST ngày 01-12-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên bố Vũ Thanh Đức không phạm tội “Tham ô tài sản”; các bị cáo Trần Quốc Tuấn, Đỗ Xuân Phong, và Phan Thanh Phi đều bị kết án về tội “Tham ô tài sản” và buộc phải bồi thường với tổng số tiền là 55.597.170 đồng; Phạm Thị Hoa Hồng bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước”. Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo đối với Phong, Tuấn, Phi và Hồng.

Tại Kháng nghị phúc thẩm số 197/VKS-P1 ngày 03-12-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình kháng nghị đối với bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt Vũ Thanh Đức về tội “Tham ô tài sản”.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 326/2008/HSPT ngày 21-3-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248; khoản 1 Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiêm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm nêu trên đối với Vũ Thanh Đức để điều tra lại.

Tại Kết luận điều tra số 36/KLĐT ngày 12-8-2008, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình đề nghị truy tố Vũ Thanh Đức về tội “Tham ô tài sản” theo khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự.

Tại Cáo trạng số 47/VKS-P1 ngày 08-01-2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình truy tố Vũ Thanh Đức về tội “Tham ô tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự; buộc Đức bồi hoàn 262.690.634 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 09/2009/HSST ngày 20-3-2009, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình áp dụng khoản 1 Điều 285; điểm s khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt Vũ Thanh Đức 09 tháng tù về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

Về trách nhiệm dân sự: kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị giám đốc thẩm hủy phần dân sự của bản số 69/2007/HSST ngày 01-12-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình và hủy phần dân sự của bản án số 326/2008/HSPT ngày 21-3-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng để xem xét lại phần dân sự trong bản án này. Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo đối với Đức.

Sau khi xét xử sơ thẩm Vũ Thanh Đức kháng cáo kêu oan.

Tại Kháng nghị phúc thẩm số 198/KN-VPT2 ngày 15-4-2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, đề nghị kết án Vũ Thanh Đức về tội “Tham ô tài sản”.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 09/2009/HSPT ngày 28-10-2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248, Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy bản án hình sự sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình để xét xử sơ thẩm lại.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 03/2010/HSST ngày 17-3-2010, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình áp dụng khoản 1 Điều 144, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự; xử phạt Vũ Thanh Đức 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 36 tháng, nhưng được trừ thời gian bị tạm giam trước từ ngày 22-6-2006 đến ngày 27-12-2006 và từ ngày 22-4-2008 đến ngày 18-8-2008 là 10 tháng 03 ngày, thời gian thử thách còn lại bị cáo phải chấp hành là 15 tháng 24 ngày, về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước”.

Về trách nhiệm dân sự: buộc Vũ Thanh Đức và 10 người liên quan phải liên đới bồi thường 262.690.634 đồng, trong đó Đức phải bồi thường 129.545.317 đồng. Về án phí, buộc Đức phải chịu 100.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.228.600 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng và quyền kháng cáo đối với Đức.

Sau khi xét xử sơ thẩm Vũ Thanh Đức có đơn kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự với nội dung: “Tòa án buộc Đức bồi thường 129.545.317 đồng là oan”; 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự.

Tại Kháng nghị phúc thẩm số 163/QĐ-KNPT ngày 09-4-2010, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, đề nghị kết án Vũ Thanh Đức về tội “Tham ô tài sản” và buộc Đức phải trả lại 262.690.000 đồng cho Ban quản lý Quỹ toàn cầu PCSR tỉnh Quảng Bình; không buộc những người liên quan phải bồi thường và nộp án phí.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 318/2010/HSPT ngày 06-9-2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần tội danh, hình phạt đối với Vũ Thanh Đức. Về phần trách nhiệm dân sự: buộc Đức bồi thường 262.690.634 đồng, về án phí, buộc Đức phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; 13.134.531 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Nghĩa vụ về chậm thi hành án được thực hiện theo quyết định của bản án sơ thẩm số 03/2010/HSST ngày 17-3-2010.

Tại Kháng nghị số 13/QĐ-VKSTC-V3 ngày 30-5-2011, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 318/2010/HSPT ngày 06-9-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đối với Vũ Thanh Đức, đề nghị hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự sơ thẩm số 03/2010/HSST ngày 17-3-2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung, theo hướng kết án Vũ Thanh Đức về tội “Tham ô tài sản”.

Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiêm sát nhân dân tôi cao.

XÉT THẤY

1. Về tội danh:

Mặc dù tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, Vũ Thanh Đức không nhận đã trực tiếp hướng dẫn những người ở các Tiểu ban Dự án lập chứng từ để rút tiền của Dự án chia nhau, nhưng trong quá trình điều tra, tại Bản tự khai đề ngày 29 tháng 6 năm 2006 (bút lục 427 và 428), Đức đã khai: trong thời gian từ quý I năm 2005 đến quý I năm 2006, theo sự phân công của Ban quản lý Dự án tỉnh, Đức đã nhận tiền hỗ trợ tổng số 286.000.000 các Tiểu ban Dự án huyện; số tiền này Đức chi cho bà Nguyễn Thị Ngọc Hà 60.000.000 đồng,ông Nguyễn Đình Yến 50.000.000 đồng, Phạm Thị Hoa Hồng 54.000.000 đồng, chị Trịnh Thị Tiện 3.600.000 đồng, Đức sử dụng cá nhân 47.000.000đồng, chi tiếp khách của Ban quản lý Dự án 20.000.000 đồng, số còn lại Đức vẫn đang giữ; chứng từ thu, chi liên quan đến số tiền này được đốt bỏ hoàn toàn sau các cuộc họp của Ban quản lý Dự án tỉnh. Lời khai này của Đức phù hợp với các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, như: lời khai của các bị cáo Phan Thanh Phi, Đỗ Xuân Phong, Trần Quốc Tuấn (đều đã bị kết án về tội “Tham ô tài sản”) và lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trân Văn Thiệu, Cao Xuân Lợi, Cao Văn Chương, Nguyễn Viết Đoài, Nguyễn Quyết Lĩnh, Nguyễn Song Hà và Trần Tấn An. Ngoài ra, tại Biên bản hỏi cung đề ngày 07-8-2006 (bút lục 425-426) có sự tham gia của Luật sư Lê Minh Tâm (Luật sư bào chữa cho Vũ Thanh Đức), Đức cũng khai nhận các nội dung như đã nêu ở trên, nhưng do Cơ quan điều tra không yêu cầu Đức ký vào các trang 01, 02 và 03 mà chỉ ký tên vào trang cuối của biên bản, nên theo quy định tại Điều 132 Bộ luật tố tụng hình sự thì biên bản hỏi cung này không đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ. Tuy nhiên, với những chứng cứ như đã nêu ở trên, xét thấy hành vi của Vũ Thanh Đức có dấu hiệu phạm tội “Tham ô tài sản”. Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Vũ Thanh Đức về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” là không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.

2. Về các sai lầm khác:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm còn có một số sai lầm khác như sau:

* Về  việc ẩn định thời gian thử thách của án treo:

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: “Xử phạt Vũ Thanh Đức 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 tháng, nhưng được tính trừ thời gian bị tạm giam trước từ ngày 22-6-2006 đến ngày 27-12-2006 và từ ngày 22-4-2008 đến ngày 18-8-2008 là 10 tháng 3 ngày, thời gian thử thách còn lại bị cáo phải chẩp hành là 15 tháng 24 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (17-3-2010)” là ấn định thời gian thử thách rồi mới trừ thời hạn tạm giam. Quyết định như vậy là không đúng (về cách tính và cách tuyên thời gian thử thách của án treo) với hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán và Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01-7-2009 của Tòa án nhân dân tối cao.

* Về việc quyết định án phí:

-  Án phí hình sự sơ thẩm:

Sau khi xét xử sơ thẩm, Vũ Thanh Đức không kháng cáo về hình sự mà chỉ có Kháng nghị của Viện kiểm sát về tội danh đối với Đức, không kháng nghị về án phí. Tuy vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã giữ nguyên tội danh và hình phạt đối với Đức nhưng lại tăng án phí hình sự sơ thẩm từ 100.000 đồng lên 200.000 đồng đối với Đức là không đúng pháp luật.

-  Án phí dân sự:

+ Đối với Vũ Thanh Đức, có kháng cáo về phần dân sự. Tòa án cấp phúc thẩm sửa quyết định sơ thẩm về dân sự và đã xác định lại nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm là đúng theo quy định tại khoản 2 Điêu 30 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án (nhưng không nhận xét về việc Tòa án cấp sơ thẩm đã miễn một phần án phí đối vơi Đức), đồng thời lại buộc bị cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

+ Đối với 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tòa án cấp sơ thẩm buộc 10 người này phải bồi thường theo kỷ phần và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Cả 10 người này có kháng cáo về dân sự và được Tòa án cấp phúc thẩm tuyên họ không phải bồi thường, nhưng lại không xác định nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm đổi với họ là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Từ những phân tích nêu trên, xét thấy cần phải hủy bản án hình sự phúc thẩm số 318/2010/HSPT ngày 06-9-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án hình sự sơ thẩm số 03/2010/HSST ngày 17-3-2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đối với Vũ Thanh Đức để điều tra lại theo hướng truy tố, xét xử và kết án Vũ Thanh Đức về tội “Tham ô tài sản”, đồng thời khắc phục những sai lầm đã được nêu ở trên. Trường hợp sau khi đã điều tra, truy tố và xét xử lại nhưng không có đủ căn cứ kết án Vũ Thanh Đức về tội “Tham ô tài sản”, thì cũng phải kết án Vũ Thanh Đức về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 318/2010/HSPT ngày 06-9-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án hình sự sơ thẩm số 03/2010/HSST ngày 17-3-2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình để điều tra lại đối với Vũ Thanh Đức; chuyển hồ sơ vụ án cho Viên kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 09/2013/HS-GĐT về vụ án hình sự Vũ Thanh Đức phạm tội tham ô tài sản và thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English