QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 17/2007/HS-GĐT NGÀY 04/06/2007 VỀ VỤ ÁN HOÀNG THỊ HƯƠNG PHẠM TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

……..

Ngày 04 tháng 6 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Hoàng Thị Hường sinh năm 1952; đăng ký hộ khẩu thường trú tại nhà số 338A Nguyễn Thị Minh Khai, phường 5, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở (tạm trú): nhà số 118/39 Bạch Đằng, phường 24, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh; có chồng và 02 con; bị bắt tạm giam từ ngày 17-02-2000 đến ngày 06-02-2002 (đã chấp hành xong hình phạt tù).

Người bị hại:

- Bà Vũ Thị Tú Thành trú tại nhà số 12 Đông Sơn, phường 7, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Bùi Văn Minh và bà Trần Thị Mộng Hằng đều trú tại nhà số 147/3D Ung Văn Khiêm, Phường 25, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Nguyễn Thị Hợp sinh năm 1937, hộ chiếu A.43334364 do Đại sứ quán Hoa Kỳ cấp ngày 10-10-2002; thường trú tại Hoa Kỳ; tạm trú tại nhà số 35/1 Lê Đức Thọ, phường 16, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh; ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Chủ thường trú tại nhà số 18/111 đường Quang Trung, phường 10, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh

- Ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh đều trú tại nhà số 216 Đề Thám, phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, theo bản án sơ thẩm, trong vụ án còn có một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

NHẬN THẤY

Do có mối quan hệ quen biết nên Hoàng Thị Hường đã nhiều lần vay mượn tiền, vàng của vợ chồng ông Bùi Văn Minh và bà Trần Thị Mộng Hằng và thanh toán sòng phẳng nên đã gây được lòng tin với ông Minh và bà Hằng. Lợi dụng lòng tin của vợ chồng ông Minh và bà Hằng, Hường đã dùng thủ đoạn gian dối khi thế chấp tài sản (dùng đất của Hường và của người khác thế chấp vay tiền nhiều nơi với cam kết là đất của Hường do người khác đứng tên hộ và hoàn toàn chịu trách nhiệm) để tiếp tục vay tiền, vàng của vợ chồng ông Minh và bà Hằng. Từ ngày 01-6-1997 đến ngày 04-10-1997 vợ chồng ông Minh và bà Hằng đã cho Hường vay 360 lượng vàng. Đến thời hạn trả nợ, Hường không thanh toán. Do vợ chồng ông Minh và bà Hằng đòi nhiều lần, ngày 15-7-1998 Hường lại dùng thủ đoạn gian dối để bán các lô đất (số 626A, 361A, 491A, 496B) đã thế chấp cho vợ chồng ông Minh và bà Hằng để trừ nợ. Tổng số tiền chuyển nhượng 04 lô đất nêu trên là 465 lượng vàng, hợp đồng đã ký nhưng Hường không chịu thực hiện. Sau đó, Hường lại thỏa thuận chuyển nhượng lô đất số 496B giá 450 lượng vàng cho vợ chồng ông Minh để trừ nợ. Bằng nhiều thủ đoạn gian dối, Hoàng Thị Hường đã chiếm đoạt của vợ chồng ông Minh và bà Hằng 370 lượng vàng và vay không trả cho ông Minh và bà Hằng 35,12 lượng; tổng cộng hai khoản là 405,12 lượng vàng. Cơ quan điều tra đã kê biên lô đất số 496B nêu trên, giao cho vợ chồng ông Minh, bà Hằng bảo quản chờ xử lý.

Với thủ đoạn gian dối trong việc mua bán đất chung với bà Vũ Thị Tú Thành, Hoàng Thị Hường đã chiếm đoạt của bà Thành 97,78 lượng vàng. Ngoài ra, trong quan hệ vay mượn, Hường còn nợ bà Thành 85.000.000 đồng, 1.500USD và 16,249 lượng vàng. Cơ quan điều tra đã kê biên 03 lô đất số 686A, số 631H, số 626A do Hường và bà Thành góp tiền mua chung (trong đó Hường góp 2/3, bà Thành góp 1/3), giao cho bà Thành bảo quản chờ xử lý.

Ngoài ra, Hoàng Thị Hường còn vay nợ một số người khác, trong đó có bà Nguyễn Thị Hợp và vợ chồng ông Lê Xuân Phiến, bà An Thị Kim Minh; cụ thể như sau:

Do có mối quan hệ quen biết, Hoàng Thị Hường đã nhiều lần vay tiền, vàng (tiền đô la Mỹ, tiền đồng Việt Nam và vàng quy đổi ra đô la Mỹ) của bà Nguyễn Thị Hợp. Ngày 24-9-1998, Hường cùng chồng là ông Ngô Văn Châu và bà Hợp chốt nợ là 140.693USD (trong đó có 114.400USD nợ gốc và 26.293USD tiền lãi) và đồng ý giao diện tích đất 2048m2 (trên đó có quán cà phê Thiên Trang) tại 139 Đường Tăng Long, hương lộ 55, ấp Phước Hiền, phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh (đất của gia đình Hường nhưng ông Đào Quốc Nguyên đứng tên) cho bà Hợp (bằng việc lập Giấy sang nhượng đất đứng tên ông Nguyễn Quốc Vương theo yêu cầu của bà Hợp) để cấn trừ nợ 67.586USD. Ngày 21-12-1998 Hoàng Thị Hường tiếp tục viết Giấy cam kết xác nhận nợ bà Hợp 139.586USD và đồng ý giao lô đất nêu trên (trị giá 200 lượng vàng SJC – tương đương 67.586USD) cho bà Hợp để cấn trừ nợ (Lô đất này Hường cũng đã thế chấp cho ông Bùi Văn Minh). Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã kê biên lô đất này giao cho bà Nguyễn Thị Hợp và ông Nguyễn Quốc Vương (người được bà Hợp nhờ đứng tên mua lô đất này của Hường) bảo quản chờ xử lý. Cơ quan điều tra đã khởi tố Hường về hành vi “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (của bà Hợp). Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đình chỉ điều tra vụ án và đình chỉ điều tra bị can đối với Hoàng Thị Hường về hành vi “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (của bà Hợp) vì hành vi này không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Từ năm 1995 đến năm 1998, Hoàng Thị Hường đã nhiều lần vay tiền, vàng của vợ chồng ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh; hai bên thống nhất chốt nợ và quy đổi thành 79.914USD. Do không có tiền trả nợ, Hường thỏa thuận giao lô đất 491A thuộc ấp Phước Hiệp, phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh cho vợ chồng ông Phiến và bà Minh để cấn trừ 36.000USD (lô đất này Hường mua chung với bà Vũ Thị Tú Thành, trong đó của bà Thành là 1/3). Cơ quan điều tra đã kê biên lô đất này giao cho ông Phiến bảo quản chờ xử lý, nhưng không khởi tố Hường về hình sự vì cho rằng đây là quan hệ dân sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 478/HSST ngày 09-4-2003, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

- Áp dụng khoản 3 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt Hoàng Thị Hường 02 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 17-02-2000 (bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù).

- Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự, buộc Hoàng Thị Hường bồi thường cho bà Vũ Thị Tú Thành 114,029 lượng vàng, 85.000.000 đồng và 1.500USD (tương đương 03 lô đất: lô đất số 686A, lô đất số 631H, lô đất số 626A tờ bản đồ số 7, ấp Phước Lai, xã Long Trường, huyện Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh; tiếp tục kê biên 03 lô đất trên giao cho bà Vũ Thị Tú Thành quản lý để bảo đảm thi hành án theo biên bản kê biên ngày 18-5-2000 của Cơ quan điều tra Bộ công an).

- Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 471 Bộ luật dân sự:

+ Buộc Hoàng Thị Hường phải trả cho ông Bùi Văn Minh và bà Trần Thị Mộng Hằng 410 lượng vàng (tương đương lô đất số 496B tờ bản đồ số 7, ấp Ông Nhiêu, xã Long Trường, huyện Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh; tiếp tục kê biên lô đất trên giao cho ông Bùi Văn Minh và bà Trần Thị Mộng Hằng quản lý để bảo đảm thi hành án – theo Biên bản kê biên ngày 11-5-2000 của Cơ quan điều tra Bộ Công an.

+ Buộc Hoàng Thị Hường phải trả cho bà Nguyễn Thị Hợp 02 khoản tài sản như sau: 68.936USD (tương đương lô đất số 361A tờ bản đồ số 5, phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh; tiếp tục kê biên lô đất này giao cho bà Nguyễn Thị Hợp quản lý để bảo đảm thi hành án – theo Biên bản kê biên ngày 11-5-2000 của Cơ quan điều tra Bộ Công an); tiền vốn là 72.000USD quy đổi là 1.112.904.000 đồng và tiền lãi là 563.129.380 đồng, tổng cộng là 1.676.033.380 đồng.

+ Buộc Hoàng Thị Hường phải trả cho ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh 02 khoản tài sản như sau: 36.000USD (tương đương với lô đất số 491A ấp Phước Hiệp, phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh; tiếp tục kê biên lô đất này giao cho ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh quản lý để bảo đảm thi hành án – theo Biên bản kê biên ngày 04-8-2000 của Cơ quan điều tra Bộ Công an); tiền vốn 43.914USD quy đổi là 671.000.000 đồng và tiền lãi là 351.872.400 đồng, tổng cộng là 1.022.872.400 đồng.

- Hoàng Thị Hường có quyền khởi kiện bà Dư Hương Lan về việc tranh chấp về lô đất số 700 để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 50.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 26.700.000 đồng.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Hường không kháng cáo.

Tại quyết định giao tài sản số 444/THA ngày 17-6-2004 Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh đã giao cho ông Lê Xuân Phiến, bà An Thị Kim Minh lô đất số 491A ấp Phước Hiệp, phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh quản lý để thi hành án.

Tại Quyết định giao tài sản số 446/THA ngày 17-6-2004 Phòng Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh đã giao cho bà Nguyễn Thị Hợp (do ông Nguyễn Văn Chủ đại diện) lô đất 361A tờ bản đồ số 5 phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh quản lý để thi hành án.

Ngày 20-3-2006 Hoàng Thị Hường có đơn gủi lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị giám đốc thẩm phần dân sự của bản án hình sự sơ thẩm số 478/HSST ngày 09-4-2003 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

+ Tại quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/QĐ-VKSTC-V3 ngày 07-4-2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định:

“… Tòa án còn tuyên buộc bị cáo Hoàng Thị Hường phải trả cho bà Nguyễn Thị Hợp; ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh mỗi người 2 (hai) khoản tài sản như đã nêu trên là không đúng pháp luật. Vì: hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của bà Nguyễn Thị Hợp đã được Viện kiểm sát nhân dân tối cao đình chỉ điều tra vụ án và đình chỉ điều tra bị can Hoàng Thị Hường vào ngày 23-4-2002. Các hành vi chiếm đoạt tài sản của các ông bà Lê Xuân Phiến, An Thị Kim Minh, Lê Thị Thành Cù, Trần Hùng Dũng... chưa có cơ sở để kết luận những hành vi đó của Hoàng Thị Hường là phạm tội hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an tiếp tục xem xét và giải quyết tiếp theo quy định của pháp luật. Việc Hoàng Thị Hường vay ngoại tệ, tiền, vàng của bà Nguyễn Thị Hợp; ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh rồi không thanh toán được. Các hành vi này không liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà Cơ quan điều tra Bộ Công an đã kết luận và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã truy tố trước pháp luật.

Tại Cáo trạng số 05/VKSTC-KSĐT-TA ngày 22-04-2002 Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ truy tố Hoàng Thị Hường về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của vợ chồng ông Minh, bà Hằng và của bà Vũ Thị Tú Thành và đã được Tòa án nhân dân xét xử. Nhưng việc nhận định và quyết định buộc bị cáo Hoàng Thị Hường phải trả cho bà Nguyễn Thị Hợp; ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh các khoản tài sản là không đúng với nội dung, phạm vi mà cáo trạng nêu trên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã truy tố bị cáo, trái với Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2000 cũng như Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về giới hạn của việc xét xử. Đây là vi phạm nghiêm trọng khi xét xử vụ án hình sự”.

Từ nhận định trên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm số 478/HSST ngày 09-4-2003 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao hủy một phần quyết định về dân sự của bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, bao gồm:

- Buộc: Hoàng Thị Hường phải trả cho bà Nguyễn Thị Hợp 2 (hai) khoản tài sản như sau:

1/ 68.693USD (tương đương lô đất số 361A tờ bản đồ số 5, phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh; tiếp tục kê biên lô đất này giao cho bà Nguyễn Thị Hợp quản lý để bảo đảm thi hành án theo Biên bản kê biên ngày 11-5-2000 của Cơ quan điều tra Bộ Công an);

2/ Tiền vốn là 72.000USD quy đổi là 1.112.904.000 đồng (một tỷ một trăm mười hai triệu chín trăm lẻ bốn ngàn đồng) và tiền lãi là 563.129.380 đồng (năm trăm sáu mươi ba triệu một trăm hai mươi chín ngàn ba trăm tám mươi đồng). Tổng cộng là 1.676.033.380 đồng (một tỷ sáu trăm bảy mươi sáu triệu không trăm ba mươi ba ngàn ba trăm tám mươi đồng).

- Buộc Hoàng Thị Hường phải trả cho ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh 2 (hai khoản tài sản như sau:

1/ 36.000USD (tương đương với lô đất số 491A ấp Phước Hiệp, phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục kê biên lô đất này giao cho ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh quản lý để bảo đảm thi hành án – theo Biên bản kê biên ngày 04-8-2000 của Cơ quan điều tra Bộ Công an);

2/ Tền vốn 43.914USD quy đổi là 671.000.000 đồng (sáu trăm bảy mươi một triệu đồng) và tiền lãi là 351.872.400 đồng (ba trăm năm mươi một triệu tám trăm bảy mươi hai triệu bốn trăm ngàn đồng), tổng cộng là 1.022.872.400 đồng (một tỷ không trăm hai mươi hai triệu tám trăm bảy mươi hai ngàn bốn trăm đồng).

Tại quyết định giám đốc thẩm số 39/2006/HS-GĐT ngày 22-11-2006, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 478/HSST ngày 09-4-2003 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Tại quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/QĐ-VKSTC-V3 ngày 05-3-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị quyết định giám đốc thẩm số 39/2006/HS-GĐT ngày 22-11-2006 của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định giám đốc thẩm nêu trên, đồng thời hủy một phần quyết định về dân sự của bản án hình sự sơ thẩm số 478/HSST ngày 09-4-2003 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (như đã nêu tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/QĐ-VKSTC-V3 ngày 07-4-2006), với lý do:

Trong vụ án hình sự này Viện kiểm sát nhân dân không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Hoàng Thị Hường về các hành vi vay tiền, vàng của bà Nguyễn Thị Hợp và vợ chồng ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh. Quan hệ vay nợ dân sự này là quan hệ dân sự độc lập, không liên quan đến vụ án hình sự. Họ không phải là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án như quy định tại Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trong phần nhận định của quyết định giám đốc thẩm số 39/2006/HS-GĐT ngày 22-11-2006 của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao có nêu: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bà Nguyễn Thị Hợp và vợ chồng ông Lê Xuân Phiến, bà An Thị Kim Minh là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đồng thời giải quyết luôn các quan hệ vay nợ  này là phù hợp và không trái pháp luật. Đây là nhận định sai lầm nghiêm trọng. Vì: Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa các quan hệ dân sự độc lập (vay, mượn) vào xét xử chung trong cùng một vụ án hình sự là trái với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử của Tòa án trong vụ án hình sự, còn việc cấn trừ tiền vay mượn bằng đất của Tòa án đã làm mất đi một khoản án phí dân sự được quy định tại Nghị định 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án, và thực tế đã làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước khi xét xử quan hệ dân sự nêu trên trong vụ án hình sự này.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

1- Khi hành vi phạm tội của Hoàng Thị Hường bị phát hiện, bà Nguyễn Thị Hợp cũng như vợ chồng ông Lê Xuân Phiến và bà An Thị Kim Minh đều có đơn gửi Cơ quan cảnh sát điều tra tố cáo hành vi của Hường và họ đã được tham gia tố tụng ở giai đoạn điều tra vụ án. Trong quá trình khởi tố, điều tra vụ án về hành vi phạm tội của Hoàng Thị Hường, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã kê biên tài sản của Hường (gồm các lô đất số 361A tờ bản đồ số 5 phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh) giao cho bà Nguyễn Thị Hợp và vợ chồng ông Lê Xuân Phiến, bà An Thị Kim Minh bảo quản chờ xử lý. Khi kết luận điều tra cũng như khi quyết định truy tố đối với Hoàng Thị Hường, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao chưa có quyết định xử lý đối với các quyết định kê biên tài sản nói trên. Khi hồ sơ vụ án được chuyển đến Tòa án để xét xử, bà Hợp và vợ chồng ông Phiến, bà Minh đều đề nghị Tòa án xem xét buộc bị cáo Hường trả nợ cho họ và xin được cấn trừ nợ bằng diện tích đât mà Hường đã thỏa thuận trước đây. Mặt khác, khi xét xử vụ án hình sự này Tòa án sẽ phải xử lý tài sản đã kê biên của bị cáo Hường (trong đó có các lô đất 361A tờ bản đồ số 5 phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh và số 491A ấp Phước Hiệp, phường Long Trường, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh mà Cơ quan cảnh sát điều tra đã kê biên và giao cho bà Nguyễn Thị Hợp và vợ chồng ông Lê Xuân Phiến, bà An Thị Kim Minh bảo quản chờ xử lý – các lô đất này còn liên quan đến hai người bị hại trong vụ án hình sự này là bà Thành và ông Minh) cho nên quyết định của Tòa án sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Hợp và vợ chồng ông Lê Xuân Phiến, bà An Thị Kim Minh.

Với các lý do trên, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Nguyễn Thị Hợp và vợ chồng ông Lê Xuân Phiến, bà An Thị Kim Minh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là có căn cứ.

2- Tuy Hoàng Thị Hường không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi vay nợ tiền, vàng của bà Nguyễn Thị Hợp và của vợ chồng ông Lê Xuân Phiến, bà An Thị Kim Minh, nhưng những người này được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án như nhận định ở trên, nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử quyết định những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của những người này là không vi phạm quy định tại Điều 170 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (nay là Điều 196 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) về giới hạn của việc xét xử. Điều luật này chỉ quy định giới hạn của việc xét xử về hình sự, còn việc xét xử về phần dân sự, xử lý tài sản đã kê biên trong vụ án hình sự… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều luật này. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không kháng cáo và trong đơn đề nghị giám đốc thẩm đề ngày 20-3-2006, bị cáo cũng không khiếu nại việc Tòa án buộc bị cáo trả nợ cho bà hợp và vợ chồng ông Phiến, bà Minh (trừ khoản tiền lãi) mà chỉ đề nghị được bán đấu giá các lô đất đã bị kê biên để thanh toán các khoản nợ.

Từ các nhận định trên, cho thấy tại Quyết định giám đốc thẩm số 39/2006/HS-GĐT ngày 22-11-2006, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận kháng nghị số 06/QĐ-VKSTC-V3 ngày 07-4-2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ.

3- Về quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm là đã quá thời hạn luật định. Tuy nhiên, xét quyết định này cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm quyết định buộc bị cáo Hường phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 26.700.000 đồng nhưng không có nhận định về các khoản tiền phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là có thiếu sót, song đã được khắc phục. Tại công văn số 1560/CV-TA ngày 04-6-2007 Chủ tọa phiên tòa giải trình: “Trong vụ án, chỉ tính án phí phần bị cáo Hoàng Thị Hường phải bồi thường cho bà Vũ Thị Tú Thành – tổng cộng quy đổi thành tiền đồng Việt Nam là 935.000.000 đồng. Đối với những trường hợp khác do hai bên có thỏa thuận cấn trừ đất và nhất trí hoàn trả tiền vốn, lãi, lại tự nguyện tại phiên tòa (và cũng không phải là trách nhiệm hình sự) nên không tính án phí…”.

4- Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng nghị và thời hiệu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đố với bản án sơ thẩm nói trên cũng đã hết và cũng không thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 279 và khoản 1 Điều 285 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 06/QĐ-VKSTC-V3 ngày 05-3-2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên quyết định giám đốc thẩm số 39/2006/HS-GĐT ngày 22-11-2006 của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao.

Lý do không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao:

Điều 170 (nay là Điều 196) Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định giới hạn của việc xét xử về hình sự, còn việc xét xử về dân sự, xử lý tài sản không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều luật này. Sau khi xét xử, bị cáo cũng không khiếu nại việc Tòa án buộc bị cáo trả nợ cho những người liên quan. Do đó, không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 17/2007/HS-GĐT về vụ án Hoàng Thị Hương phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English