QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 14/2014/GĐT-HC NGÀY 25/08/2014 VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

TÒA HÀNH CHÍNH TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 25 tháng 8 năm 2014, tại trụ sở Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: ông Phạm Văn Sáu; trú tại ấp Dinh An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Người bị kiện: ủy ban nhân dân xã An Phú Tân, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lưu Thị Bé Năm; trú tại ấp Dinh An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

NHẬN THẤY

Năm 1986, giữa ông Phạm Văn Sáu và ông Nguyễn Văn Hòa có tranh chấp với nhau ranh đất con mương có diện tích khoảng 25m2, tại ấp An Trại, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, ông Phạm Văn Sáu và ông Nguyễn Văn Hòa đã tự thỏa thuận hòa giải thành.

Ngày 19/6/1989, ủy ban nhân dân xã An Phú Tân ra Quyết định 14/QĐ-UBX.89 về việc Kết luận cuộc hòa giải tranh chấp mương ranh đât của ông Phạm Văn Sáu và ông Nguyễn Văn Hòa ở ấp An Trại, nội dung như sau: Cái mương ranh tranh chấp giữa ông Sáu và ông Hòa được chia đôi dọc theo ranh đất và mỗi người sử dụng nửa mương về phía đất của mình; đông thời, ông Nguyên Văn Sáu (con ông Hòa) phải đăp liên lại lộ do ông Phạm Văn Sáu đào đứt. Do phía gia đình ông Nguyễn Văn Hòa không đắp lại phần lộ bị đào đứt, nên ủy ban nhân dân huyện cầu Kè có Công văn số 57/CV-UBH ngày 31/8/1989, với nội dung yêu cầu hai bên thực hiện theo Quyết định số 14/QĐ-UBX.89 ngày 19/6/1989 của ủy ban nhân dân xã An Phú Tân, ông Hòa phải đắp lại đường nước như cũ. Sau đó, các bên đã sử dụng đất ổn định, kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không ai có tranh chấp hay khiếu nại gì cho đến năm 2005.

Ngày 22/11/1995, hộ ông Phạm Văn Sáu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 443, diện tích 2.670m2.

Đến năm 2006, gia đình ông Nguyễn Văn Hòa tiếp tục phát sinh tranh chấp với gia đình ông Phạm Văn Sáu về con mương này, ông Phạm Văn Sáu đã uỷ quyền cho vợ bà Lưu Thị Bé Năm khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Văn Đậm phải trả lại phần đất đã lấn chiếm cho gia đình ông Phạm Văn Sáu, bà Lưu Thị Bé Năm (ông Nguyễn Văn Hòa mất vào năm 1997, phần đất của ông Nguyễn Văn Hòa chuyển lại cho con là ông Nguyễn Văn Đậm quản lý, sử dụng).

Việc giải quyết tranh chấp đất đai nêu trên đã được Tòa án giải quyết qua nhiều cấp; ngày 02/4/2010, Tòa án nhân dân huyện cầu Kè có quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, lý do: Ông Phạm Văn Sáu, bà Lưu Thị Bé Năm chỉ yêu cầu thực hiện đóng ranh đất theo đúng Quyết định số 14/QĐ-UBX ngày 19/6/1989 của ủy ban nhân dân xã An Phú Tân.

Ngày 12/4/2010, ủy ban nhân dân xã An Phú Tân có Công văn số 03/UBND.VX trả lời đơn yêu cầu của ông Phạm Văn Sáu, bà Lưu Thị Bé Năm, nội dung: Qua xét đơn ông, bà yêu cầu UBND xã An Phú Tân thực hiện theo QĐ sổ 14 năm 1989 đo cắm cọc ranh trên phần đất tranh chấp lại cho ông, bà là không thực hiện được vì chức năng của UBND xã không có thẩm quyền phục hồi cắm cọc ranh đất cho ông, bà mà chỉ cỏ UBND huyện và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện cầu Kè mới có thẩm quyền phục hồi và đo cắm cọc ranh lại cho bà.

Ngày 14/02/2011, ủy ban nhân dân xã An Phú Tân có Quyết định số 32/QĐ-UBND về việc thu hồi Quyết định SỐ14/UBX.89 ngàỵ 19/6/1989, nội dung: “Thu hồi Quyết định số 14/UBX.89 ngày 19/6/1989' của ủy ban nhân dân xã An Phú Tân về việc kết luận cuộc hoà giải tranh chấp mương ranh đất của ông Phạm Văn Sáu và ông Nguyễn Văn Hoà, lý do: Vào năm 1991, huyện cầu Kè thực hiện chương trình đất Cửu Long đã tiến hành đo đạc và cấp Giấy chứng nhận cho ông Phạm Văn Sáu (chông bà Lưu Thị Bé Năm) vào ngày 21/11/1995 và hộ đã sử dụng ổn định, không phát sinh tranh chấp từ khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến nay. Nên Quyết định sổ 14/UBX.89 ngày 19/6/1989 của Uỷ ban nhân dân xã An Phủ Tân, huyện cầu Kè, tỉnh Trà Vinh không còn hiệu lực pháp luật.

Ngày 24/4/2011, bà Lưu Thị Bé Năm (vợ ông Sáu) khiếu nại Quyết định số 32/QĐ-UBND đến ủy ban nhân dân huyện cầu Kè.

Ngày 11/8/2011, Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện cầu Kè ban hành Quyết định sô 2767/QĐ-ƯBND, trả lời khiêu nại, nội dung: Công nhận Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 14/02/2011 của Uỷ ban nhân dân xã An Phủ Tân; bác đon khiêu nại đề ngày 24/4/2011 của bà Lưu Thị Bé Năm.

Ngày 08/9/2011, ông Phạm Văn Sáu làm đơn khởi kiện gửi Tòa án nhân dân huyện cầu Kè, yêu cầu: Tòa án nhân dân huyện cầu Kè huỷ Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 14/02/2011 của Uỷ ban nhân dân xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2012/HC-ST ngày 10/4/2012, Tòa án nhân dân huyện cầu Kè đã quyết định: Bác yêu cầu của ông Phạm Văn Sáu đòi huỷ Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 14/02/2011 của Uỷ ban nhân dân xã An Phú Tân.

Ngày 23/4/2012, ông Phạm Văn Sáu làm đơn kháng cáo đối với toàn bộ Bản án sơ thẩm số 01/2012/HC-ST ngày 10/4/2012 của Toà án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2012/HCPT ngày 23/8/2012, Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn Sáu; Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm so 01/2012/HC-ST ngày 10/4/2012 của Toà án nhân dân huyện cầu Kè; Không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn Sáu đòi huỷ Quyết định sổ 32/QĐ-UBND ngày 14/02/2011 của Uỷ ban nhân dân xã An Phú Tân, huyện cầu Kè, tỉnh Trà Vinh (BI số 164).

Ngày 25/9/2012, ông Phạm Văn Sáu có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2012/HCPT ngày 23/8/2012 của Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh.

Ngày 22/11/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có Kháng nghị giám đốc thẩm số 21/2013/KN-HC, với nội dung: Kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2012/HCPT ngày 23/8/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh. Đề nghị Tòa Hành chính Tòa án nhân dân toi cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm so 01/2012/HC-PT ngày 23/8/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh và Bản án hành chỉnh sơ thẩm sổ 01/2012/HC-ST ngày 10/4/2012 của Tòa án nhân dân huyện cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; giao hồ sơ vụ án để Tòa án nhân dân huyện cầu Kè xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Do giữa hộ gia đình ông Phạm Văn Sáu và ông Nguyễn Văn Hòa tranh chấp ranh đất con mương tại ấp An Trại, xã An Phú Tân, huyện cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; nên Uỵ ban nhân dân xã An Phú Tân ra Quyết định 14/QĐ-UBX.89 ngày 19/6/1989 vê việc giải quyêt tranh chấp mương ranh đất của ông Phạm Văn Sáu và ông Nguyễn Văn Hòa.

Theo quy định tại khoản 7 Điều 9 và khoản 1 Điều 21 Luật Đất đai năm 1987, khoản 1 Điều 15 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Luật đất đai, thì ủy ban nhân dân xã có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đât đai giữa các cá nhân với nhau. Việc tranh chấp đất đai giữa ông Phạm Văn Sáu và ông Nguyễn Văn Hòa phát sinh vào năm 1989, nên ủy ban nhân dân xã An Phú Tân ban hành Quyết định số QD14/UBX.89 ngày 19/6/1989 để giải quyết là đúng thẩm quyền. Do các bên tranh chấp không có khiếu nại theo quy định của pháp luật, nên quyết định có hiệu lực.

Như vậy, Quyết định số 14/UBX.89 ngày 19/6/1989 của ủy ban nhân dân xã An Phú Tân là quyết định giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của Luật đất đai năm 1987; quyết định này đã được các bên thi hành.

Sau đó, việc tranh chấp của các đương sự xảy ra vào năm 2005 thì đây là tranh chấp mới phát sinh. Do tranh chấp vào thời điểm này, về thẩm quyền phải căn cứ vào quy định của Luật đất đai năm 2003 để giải quyết. Theo quy định tại Điều 136 và Điều 138 Luật đất đai năm 2003, thì việc giải quyết tranh chấp này chỉ có thể là Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện cầu Kè hoặc Tòa án nhân dân huyện cầu Kè là người (hoặc cơ quan) có thẩm quyền giải quyết.

Do đó, việc ủy ban nhân dân xã An Phú Tân ban hành Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 14/02/2011 để thu hồi Quyết định số 14/UBX.89 ngày 19/6/1989 của chính mình, nhằm giải quyết lại việc tranh chấp liên quan đến ranh đất giữa hộ gia đình ông Phạm Văn Sáu và Nguyễn Văn Hòa là không đúng thẩm quyền theo quy định của Luật đất đai năm 2003.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ủy ban nhân dân xã An Phú Tân cho rằng đã căn cứ vào Thông báo số 111 ngày 07/7/2010 của Văn phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân huyện cầu Kè thông báo ý kiến kết luận của Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện cầu Kè để ra Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 14/02/2011 thu hồi Quyết định số 14/UBX.89 ngày 19/6/1989, mà không căn cứ vào quy định của pháp luật về quản lý đất đai là không đúng pháp luật.

Việc Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm cùng nhậ định: Quyết định sổ 14/UBX.89 ngày 19/6/1989 của ủy ban nhân dân xã An Phú Tân lại không thể hiện rõ phần đất tranh chấp thuộc thửa đất số mấy, diện tích đất tranh chấp là bao nhỉệ, đất tọa lạc ở đâu, chiểu dài, tứ cận như thế nào, nên quyết định này không thể thi hành được ...Trình tự, thủ tục tống đạt quyết định này không đúng quy định, nên không đảm bảo quyền lợi của các đương sự và tính hiệu lực pháp luật của quyết định. Nhận định như vậy là không phù họp với tình tiết khách quan của vụ án, vì các đương sự không tranh chấp về diện tích đất, mà chỉ tranh chấp về ranh đất do hiện trạng sử dụng đất chưa được đo vẽ chính xác.

Theo giấy xác nhận của ông Nguyễn Hồng Tư (nguyên là Trưởng ban Tư pháp xã An Phú Tân) và ông Nguyễn Văn Dũng (nguyên Trưởng Ban nhân dân ấp An Trại) đều xác nhận ông Sáu và ông Hòa đã nhận và thực hiện theo đúng Quyết định số 14/QĐ.UBX ngày 19/6/1989. Đồng thời, theo Giấy xác nhận ngày 25/4/2012 của ông Trần Văn Vọng (nguyên Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện cầu Kè) là người ký Công văn 57/CV-UBH ngày 31/8/1989 cho biết:" Thời điểm từ năm 1989 trở về xa xưa ở Nam Bộ đơn vị tính cho đất đai nông nghiệp là tính bằng công và cũng chưa có bản đồ giải thửa..Hơn nữa đôi bên tranh chấp không phải tranh chấp diện tích bị xâm hại mà tranh chấp vị trí ranh đất..."

Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm không làm rõ chứng cứ này, mà máy móc cho rằng phải có bản đo vẽ thể hiện vị trí, diện tích, tứ cận.. .cụ thể, là không phù họp hoàn cảnh lịch sử khi ủy ban nhân dân xã An Phú Tân ban hành Quyết định số 14/QĐ.UBX ngày 19/6/1989 để giải quyết tranh chấp đất đai. Mặt khác, khi giải quyết vụ án, Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xem xét, đánh giá tính hợp pháp của Quyết định giải quyết khiếu nại số 2767/QĐ-UBND ngày 11/8/2011 của Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện cầu Kè theo quy định tại khoản 1 Điều 163 Luật tố tụng hành chính là chưa giải quyết toàn diện vụ án.

Do vậy, Kháng nghị giám đốc thẩm số 21/2013/HC-KN ngày 22/11/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ pháp luật.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 225 Luật tố tụng hành chính;

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 21/2013/HC-KN ngày 22/11/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2012/HC-PT ngày 23/8/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh và Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2012/HC-ST ngày 10/4/2012 của Tòa án nhân dân huyện cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; giao hồ sơ vụ án để Tòa án nhân dân huyện cầu Kè, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 14/2014/GĐT-HC về xét xử vụ án hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án