QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 22/2014/GĐT-HC NGÀY 23/09/2014 VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

TÒA HÀNH CHÍNH TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 23 tháng 9 năm 2014, tại trụ sở Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Rùa, sinh năm 1936 (ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Lại và bà Nguyễn Hồng Ngoan); cùng địa chỉ: A8/29 Bông Văn Dĩa, Ấp 1, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

Người bị kiện: ủy ban nhân nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Hữu Tùng, sinh năm 1935;

2. Ông Nguyễn Hữu Đồng, sinh năm 1976;

3. Ông Nguyễn Hữu Vàng, sinh năm 1981;

4. Bà Nguyễn Thị Ngọc Liên, sinh năm 1963;

5. Ông Nguyễn Hữu Tài, sinh năm 1961;

6. Bà Nguyễn Thị Hồng Lựu, sinh năm 1984;

7. Ông Nguyễn Hữu Quốc, sinh năm 1987;

8. Bà Nguyễn Thị Hồng Diễm, sinh năm 1990;

9. Ông Nguyễn Thanh Toàn, sinh năm 1990;

10. Bà Nguyễn Hồng Ngoan, sinh năm 1958;

Các ông, bà trên có cùng địa chỉ: A8/29 Bông Văn Dĩa, Ấp 1, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Gia đình bà Nguyễn Thị Rùa được ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A814957 ngày 15/7/1993 đối với 12 thửa đất, với tổng diện tích là 12.433m2 thuộc tờ bản đồ số 2, thuộc Ấp 1, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; nguồn gốc đất là do cha ông để lại.

Thực hiện Dự án xây dựng đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh-Trung Lương; ngày 30/6/2004, Uy ban nhân dân thành phô Hô Chí Minh ban hành Quyêt định số 3298/QĐ-UB về việc thu hồi và tạm giao đất cho Ban quản lý Dự án Mỹ Thuận tổ chức việc bồi thường, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh-Trung Lương. Gia đình bà Nguyễn Thị Rùa có 07 thửa đất gồm các thửa số 816, 817, 818, 819, 1585, 939, 941 bị ảnh hưởng bởi Dự án này.

Tại Biên bản kiểm tra, kiểm kê thực tế xác nhận hiện trạng sử dụng đất số 554/KTHT ngày 24/01/2005 do Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng huyện Bình Chánh lập, thể hiện hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hoi của gồm 4 thửa đất (thửa 816, 818, 819, 1585), không ghi diện tích cụ thể của từng thửa đất bị thu hồi.

Tại Biên bản điều tra hiện trạng đất số SHĐ 08-583 ngày 04/5/2006 do Công ty Cổ phần Vạn Phú Hưng thực hiện thì thể hiện hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hồi đất tại 02 thửa số 939 và 941, vói tổng diện tích đất là 898m2, diện tích đất bị giải tỏa là 460,6m2, diện tích còn lại là 437,4m2, không ghi diện tích từng thửa bị thu hồi.

Tại Biên bản điều tra hiện trạng đất số SHĐ 08-584 ngày 24/5/2006 do Công ty Cổ phần Vạn Phú Hưng thực hiện, thể hiện hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hồi đất tại 05 thửa đất (gồm các thửa số 816, 817, 818, 819, 1585 với tổng diện tích đất là 1768,4m2), diện tích bị thu hồi là 1.744,3m2 (trong đó đất ao là 139,5m2, đất rạch là 49, lm2), diện tích đất còn lại (rạch) là 24,2m2, không ghi diện tích đất từng thửa bị thu hồi.

Ngày 15/5/2006, ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh ban hành Quyết định số 2583/QD-UBND bồi thường cho hộ bà Nguyễn Thị Rùa như sau: Bồi thường, hỗ trợ thiệt hại về đất đối với diện tích 2.155,8m2 bị giải tỏa gồm một phần các thửa 816, 817, 818, 819, 1585, 939, 941; với số tiền là 1.057.154.035đ (đính kèm phương án bồi thường số 433/PABT-GGT ngày 17/4/2006).

Bà Nguyễn Thị Rùa đã nhận toàn bộ số tiền là 1.057.154.035đ, nhưng vẫn khiếu nại yêu cầu bồi thường gấp 5 lần đất ở và hỗ trợ 25% đối vói toàn bộ diện tích 2.200,4m2 đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư.

Ngày 11/12/2006, Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 7022/QĐ-UBND với nội dung bác khiếu nại của bà Nguyễn Thị Rùa.

Bà Nguyễn Thị Rùa khởi kiện vụ án hành chính, yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 2583/QĐ-UBND ngày 15/5/2006 của ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh.Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 08/2007/HC-ST ngày 21/12/2007, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Rùa.

Bà Nguyễn Thị Rùa có đơn kháng cáo.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 594/2008/HC-PT ngày 11/6/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị Rùa; Hủy Điều 1 của Quyết định số 2583/QĐ-UBND ngày 15/5/2006 và Quyết định số 7022/QĐ-UBND ngày i 1/12/2006 cua ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh, để tính lại giá hỗ trợ thêm 25% đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư cho hộ bà Nguyễn Thị Rùa.

Ngày 25/8/2009, ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 4985/QĐ-UBND về bồi thường thiệt hại và hỗ trợ cho hộ bà Nguyễn Thị Rùa, địa chỉ giải tỏa tại A8/29 Ấp 1, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, thuộc Dự án xây dựng đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh-Trung Lương, gồm các thửa số 817, 818, 819, 1585, 939, 941; trong đó gồm: 250m2 đất ở mặt tiền đường Bông Văn Dĩa, 1055,7m2 đất nông nghiệp vườn gò ở mặt tiên đường Bông Văn Dĩa, 250m2 đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư, 460,6m2 đất ao không mặt tiền Bông Văn Dĩa (tổng diện tích đất thu hồi là 2.155,8 m2). Tổng số tiền bồi thường là 1.075.904.035 đồng (đính kèm bảng chiết tính số 461/BCT ngày 29/7/2009).

Bà Nguyễn Thi Rùa khiếu nại Quyết định số 4985/QĐ-UBND ngày 25/8/2009 của ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh.

Ngày 05/5/2010, Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 2705/QĐ-UBND với nội dung bác khiếu nại của bà Nguyễn Thị Rùa.

Ngày 28/6/2010, bà Nguyễn Thị Rùa khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định số 4985/QĐ-UBND ngày 25/8/2009 của ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh để bồi thường toàn bộ đất nông nghiệp cho bà với diện tích 2.200,4m2(vì cho rằng ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh thu hồi của Bà diện tích 2.200,4m2, nhưng chỉ bồi thường cho Bà diện tích 2.155m2 là không đúng); tính tiền hỗ trợ 25% giá đất ở đối với toàn bộ diện tích 2.200,4m2 đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2010/HC-ST ngày 30/9/2010, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Rùa.

Ngày 07/10/2010, bà Nguyễn Thị Rùa có đơn kháng cáo.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 779/2011/HC-PT ngày 12/7/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Bác kháng cáo của bà Nguyễn Thị Rùa, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngày 15/11/2011, ông Nguyễn Văn Lại và ông Nguyễn Hồng Ngoan là người được bà Nguyễn Thị Rùa ủy quyền có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thẩm nêu trên.

Ngày 13/9/2013,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có Kháng nghị số 21/QĐ-KNGĐT-V12 với nội dung: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đổi với Bản án hành chính phúc thẩm số 779/2011/HC-PT ngày 12/712011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tồi cao xét xử giảm đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 779/201Ỉ/HC-PT ngày 12/7/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2010/HC-ST ngày 30/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh xác minh, xét xử lại theo đủng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Tại Kháng nghị số 21/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 13/9/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đưa ra một số căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 779/2011/HC-PT ngày 12/7/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh như sau: Việc ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh ban hành Quyết định số 4985/QĐ-UBND ngày 25/8/2009 về bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất không đúng trình tự, thủ tục vì không ra quyết định thu hồi đất; ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh thu hồi đất của hộ bà Nguyễn Thị Rùa với diện tích là 2.204,9m2, nhưng mới bồi thường cho hộ bà Rùa diện tích 2.155,8m2, nên việc bồi thường còn thiếu đối với diện tích đất là 49,1m2; ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh khi bồi thường thiệt hại, không hỗ trợ toàn bộ diện tích đất thu hồi theo giá đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư; đối với phần đất có diện tích 250m2, thì mới thực hiện việc hỗ trợ 25% theo giá đất ở liền kề, nhưng chưa thực hiện việc bồi thường theo giá đất nông nghiệp. Do vậy, Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm khi xét xử lại bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Rùa là không đúng.

- Xét trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số 4985/QĐ-UBND ngày 25/8/2009 của ủy ban nhân dân huyện Bình Chảnh, thành pho Hồ Chí Minh về bồi thường thiệt hại khi thu hổi đất:

Tại thời điểm ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 3298/QĐ-UB ngày 30/6/2004 về việc thu hồi và tạm giao đất cho Ban quản lý Dự án Mỹ Thuận tổ chức việc bồi thường, giải phóng mặt bằng để chuẩn bị đầu tư xây dựng dự án đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh-Trung Lương (trong đó có diện tích đất của hộ bà Nguyễn Thị Rùa) thì Luật đất đai năm 2003 chưa có hiệu lực thi hành (Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực từ ngày 01/7/2004) và tại quyết định này, ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không giao cho ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh phải ra quyết định thu hồi đất đối với từng hộ gia đình, cá nhân. Mặt khác, căn cứ vào quy định của Luật đất đai năm 1993 (được sửa đối, bổ sung năm 1998 và năm 2011) và các Văn bản hướng dẫn thi hành thì đối với các trường hợp ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ra quyết định thu hồi đất, ủy ban nhân dân cấp huyện không phải ban hành quyết định thu hồi đất cụ thể đối với từng thửa đất do hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng. Do vậy, việc ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh không ra quyết định thu hồi đất đối với hộ bà Nguyễn Thị Rùa là có căn cứ chấp nhận.

-  Xét việc hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hồi đất với diện tích là 2.204,9m2, nhưng ủy ban nhân dán huyện Bình Chảnh mới bồi thường cho hộ bà Rủa diện tích 2.155,8m2, có việc bồi thường thiếu đổi với diện tích đất là 49,1m2 hay không:

Tại Biên bản điều tra hiện trạng đất số SHĐ 08-583 ngày 04/5/2006 thì diện tích đất của hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hồi và giải tỏa là 460,6m2 tại các thửa 934 và 941; tại Biên bản điều tra hiện trạng đất số SHĐ 08-584 ngày 24/5/2006 thì diện tích đất của hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hồi và giải tỏa là 1.744,3m2 tại các thửa 816, 817, 818, 819 và 1585; tổng diện tích đất của hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hồi và giải tỏa là 2.204,9m2 (460,6m2 +1.744,3m2 = 2.204,9m2).

Tại Quyết định số 4985/QĐ-UBND ngày 25/8/2009, ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh đã bồi thường thiệt hại về đất cho hộ gia đình bà Nguyễn Thị Rùa với diện tích 2.155,8m2, nên còn thiếu diện tích đất là 49,1m(2.204,9m2 - 2.155,8m2 = 49,lm2).

Tuy nhiên, căn cứ vào Biên bản điều tra hiện trạng đất số SHĐ 08-584 ngàỵ 24/5/2006 thì diện tích đất của hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị giải tỏa là 1.744,3m2, trong đó có diện tích 49, lm2 đất là đất kênh rạch do nhà nước trực tiếp quản lý. Do vậy, ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh không thực hiện việc bồi thường diện tích 49, lm2 đất kênh rạch cho hộ bà Nguyễn Thị Rùa là có căn cứ.

- Xét việc ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh khi bồi thường thiệt hại không hỗ trợ đổi với toàn bộ diện tích đất thu hồi theo giá đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư:    

Tại Khoản 2 Điều 10 Nghị đinh số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định:

“Đấr nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất vườn ao liền kề với đất ở trong khu dân cư, ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp cùng mục đích sử dụng còn được hổ trợ thêm bằng tiền; giá tính hỗ trợ từ 20% đến 50% giá đất ỏ liền kề; mức hỗ trợ cụ thể do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phù hợp thực tế tại địa phương”.

Tại điểm 4.3 khoản 4 Phần 2 Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn về bổi thưòng, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân quy đinh tại Điều 10 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ như sau:

“Khoản 2 quy định về bồi thường đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất vườn ao liền kề với đất ở trong khu dân cư, ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp cùng loại còn được hổ trợ bằng tiền. Giá tính hỗ trợ từ 20% đến 50% giá đất ở liền kề; hướng dẫn cụ thể như sau:

+ Đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư phải là thửa đất nằm trong khu dân cư;

+ Đất vườn ao liền kề với đất ở trong khu dân cư là thủa đất có ít nhất một mặt tiếp giáp với đất ở trong khu dân cư;

+ Mức hỗ trợ cụ thể trong khoảng từ 20% đến 50% do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo đề nghị của Sở Tài chính có sự tham gia của các ngành liên quan cho phù hợp với thực tế tại địa phương”.

Đối chiếu với các quy định nêu trên thấy rằng , căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A814957 ngày 15/7/1993 do ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp cho hộ bà Nguyễn Thị Rùa, Biên bản điều tra hiện trạng đất số SHĐ 08- 583 ngày 04/5/2006 và Biên bản điều tra hiện trạng đất số SHĐ 08-584 ngày 24/5/2006, thì toàn bộ diện tích đất của hộ gia đình bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hồi là đất nông nghiệp, chỉ có một phần đất nằm tiếp giáp đường Bông Văn Dĩa, không có phần diện tích đất nào nằm tiếp giáp khu dân cư. Vì không có phần diện tích đất nào của hộ bà Nguyễn Thị Rùa bị thu hồi nằm tiếp giáp khu dân cư, nên không thể áp dụng các quy định của pháp luật để xác định diện tích đất của hộ bà Rùa bị thu hôi là đât nông nghiệp xen kẽ khu dân cư đê áp giá hô trợ theo giá đât ở liên kê.

- Xét việc ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh khi bồi thường thiệt hại và ho trợ đối với phần đất có diện tích 250m2, thì mới thực hiện việc hỗ trợ 25% theo giả đất ở liền kề, nhưng chưa thực hiện việc bồi thường theo giả đất nông nghiệp:

Tại Quyết định số 4985/QĐ-UBND ngày 25/8/2009 của ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh thể hiện việc bồi thường và hỗ trợ đối với diện tích 250m2 đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư với số tiền là: 250m2 X (1.500.000đ X 25%) = 93.750.000đ. Như vậy, đối với phần diện tích đất này, ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh mới thực hiện việc hỗ trợ 25% đối với diện tích 250m2 đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư mà chưa thực hiện bồi thường theo giá đất nông nghiệp khi thu hồi diện tích đất này của hộ bà Nguyễn Thị Rùa là không đúng với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích họp pháp của hộ bà Nguyễn Thị Rùa đối với phần diện tích đất này.

Khi giải quyết vụ án hành chính, Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm không phát hiện ra sai sót trên của Uy ban nhân dân huyện Bình Chánh, thành phô Hồ Chí Minh, đã xét xử bác yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của bà Nguyễn Thị Rùa là không đúng.

Tại Kháng nghị số 21/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 13/9/2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đã đưa ra một số căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 779/2011/HC-PT ngày 12/7/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi xem xét, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao thấy rằng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với việc ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh mới thực hiện hỗ trợ 25% đối với diện tích 250m2 theo giá đât nông nghiệp xen kẽ khu dân cư mà chưa thực hiện bồi thường theo giá đất nông nghiệp khi thu hồi diện tích đất này của hộ bà Nguyễn Thị Rùa là đúng.

Do vậy, Kháng nghị giám đốc thẩm số 21/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 13/9/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ, cân thiêt phải hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để giải quyết lại vụ án.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 225 Luật tố tụng hành chính;

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 21/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 13/9/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 779/2011/HCPT ngày 12/7/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2010/HC-ST ngày 30/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án để Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 22/2014/GĐT-HC NGÀY 23/09/2014 VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án