TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TB THÀNH PHỐ HCM

Bản án số: 01/2013/KDTM-ST

Ngày: 01/11/2013

V/v: “Tranh chấp bồi thường thiệt

hại”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT ĐỒNG

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

----------------------

 

NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT ĐỒNG

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TB – THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Bà Bùi Thị T - Thẩm phán - Chủ tọa phiên
2. Ông Nguyễn Thế N - Hội thẩm nhân dân

3. Ông Nguyễn Trung T - Hội thẩm nhân dân

Ông Ngọ Duy T – Cán bộ Tòa án nhân dân Quận TB, Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận TB, Thành phố HCM tham gia phiên tòa: Bà Lê Thị X – Kiểm sát viên.

Ngày 01 tháng 11 năm 2013 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân quận TB xét xử công khai vụ án thụ lý số: 71/2013/TLST-KDTM ngày 15 tháng 4 năm 2013 về việc “Bồi thường thiệt hại” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 195A/2013/QĐST-KDTM ngày 17/10/2013, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

NĐ_Công ty cổ phần giải trí Đại Nam

Địa chỉ: 5 LVL, Phường TB, Quận X, Thành phố HCM

Đại diện theo UQ: Lê Văn Đạt- sinh năm 1981 (giấy UQ ngày 05/03/2013) (có mặt)

BỊ ĐƠN:

BĐ_Công ty cổ phần dịch vụ Bảo An

Địa chỉ: 34 PHT, Phường 2, Quận TB, Thành phố HCM

Đại diện theo pháp luật: ông Trần Tuấn Đạt – Chức vụ: Giám đốc. (có mặt)

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

1. Ông LQ_Trương Công Định – sinh năm 1985 (vắng mặt)

Địa chỉ: 56 NHT, phường TL, Quận Y, Thành phố HCM

2. Bà LQ_Trần Thị Xuân Duy – sinh năm 1983 (vắng mặt)

Địa chỉ: 89 HKD, phường TL, Quận Y, Thành phố HCM

NHẬN THẤY:

Trong đơn khởi kiện ngày 08/3/2013 và tại các buổi làm việc tại Tòa, phía nguyên đơn

NĐ_Công ty cổ phần giải trí Đại Nam có ông Lê Văn Đạt đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 10/06/2011, NĐ_Công ty cổ phần giải trí Đại Nam (sau đây viết tắt là NĐ_Công ty Đại

Nam) và BĐ_Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Bảo An (sau đây viết tắt là BĐ_Công ty Bảo An) có ký hợp đồng dịch vụ bảo vệ số 16/2011/HĐDV-BV. Thời hạn của hợp đồng là 01 năm,

và sẽ mặc nhiên được gia hạn thêm 01 năm nếu trong thời hạn 30 ngày trước khi hết hạn hợp

đồng mà hai bên không có yêu cầu bằng văn bản về việc chấm dứt hợp đồng. Ngày 29/11/2012

tại NĐ_Công ty Đại Nam xảy ra vụ mất trộm xe SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 do ông

LQ_Trương Công Định đứng tên và bà LQ_Trần Thụy Xuân Duy là người sử dụng và là nhân viên của

NĐ_Công ty cổ phần giải trí Đại Nam. Trước sự việc trên phía NĐ_Công ty Đại Nam đã bồi thường cho ông LQ_Trương Công Định giá trị chiếc xe bị mất là 145.810.000 đồng. Mặc dù phía

NĐ_Công ty Đại Nam đã nhiều lần gửi công văn yêu cầu phía BĐ_Công ty Bảo An hợp tác và đưa ra phương thức bồi thường thỏa đáng cho chủ sở hữu xe máy bị mất, nhưng phía BĐ_Công

ty Bảo An vẫn không hợp tác và không đưa ra được biện pháp bồi thường cụ thể. Nay phía nguyên đơn yêu cầu BĐ_Công ty Bảo An phải thanh toán lại cho nguyên đơn số tiền 145.810.000 (một trăm bốn mươi lăm triệu tám trăm mười ngàn) đồng.

Ngày xảy ra việc mất xe, hai bên có ra trình báo tại Công an phường TH, Quận X nhưngCông an phường không lập thành biên bản mà nói việc này để hai bên tự thỏa thuận giải quyết.
Ngày 07/11/2012, phía BĐ_Công ty Bảo An có gửi thông báo tăng phí dịch vụ bảo vệ. Đến ngày 16/11/2012, NĐ_Công ty Đại Nam có công văn gửi cho bên BĐ_Công ty Bảo An rằng do không Đồngý với mức tăng phí dịch vụ nên sẽ thông báo chấm dứt hợp đồng.
Đến ngày hôm nay, phía NĐ_Công ty Đại Nam không có yêu cầu cung cấp thêm chứng cứ gì cho Tòa án.

Việc BĐ_Công ty Bảo An nói khu vực gửi giữ xe của nhân viên đều có danh sách của NĐ_Công ty Đại Nam và khi gửi xe có thẻ giữ xe là không đúng vì bản thân ông là nhân viên khi gửi xe cũng không hề có thẻ giữ xe. NĐ_Công ty Đại Nam chỉ có 01 khu vực để gửi xe. Phía bị đơn, BĐ_Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Bảo An có ông Trần Văn Ni trình bày:
BĐ_Công ty Bảo An thừa nhận có ký hợp Đồngcung cấp dịch vụ bảo vệ đối với phía NĐ_Công ty Đại Nam như phía nguyên đơn đã trình bày ở trên. Đến ngày 10/06/2012 phía bị đơn đã soạn thảo đề nghị xem xét tiếp tục ký hợp đồng nhưng phía nguyên đơn không đồng ý mà vẫn sử dụng dịch vụ của phía bị đơn. Đến ngày 16/11/2012 phía NĐ_Công ty Đại Namkhông tổ chức gặp gỡ phía BĐ_Công ty Bảo An mà đơn phương chấm dứt hợp đồng đã ký.

BĐ_Công ty Bảo An thừa nhận ngày 29/11/2012 tại NĐ_Công ty Đại Nam có xảy ra vụ mất trộm xe SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 do ông LQ_Trương Công Định đứng tên và bà LQ_Trần Thụy Xuân Duy là người sử dụng nhưng BĐ_Công ty Bảo An không chịu trách nhiệm bồi thường với những lý do sau:

       - Thời hạn hiệu lực của bản hợp đồng đã hết và hai bên chưa ký hợp đồng mới. Ngày 15/11/2012, NĐ_Công ty Đại Nam có gửi công văn tới BĐ_Công ty Bảo An thông báo về việc không Đồngý mức tăng phí dịch vụ và sẽ chấm dứt hợp Đồngváo ngày 16/12/2012. Tới ngày 14/12/2012, có nhân viên của BĐ_Công ty Bảo An qua thì bên NĐ_Công ty Đại Nam mới thông báo bằng miệng về việc chấm dứt hợp đồng.

       - BĐ_Công ty Bảo An không chịu trách nhiệm với những vật chất tại khoản 4.3 Điều 4 của bản hợp đồng.

       - NĐ_Công ty Đại Nam có 02 (hai) khu vực gửi giữ xe. Một của khách hàng và một của nhân viên. Khu vực gửi xe của nhân viên NĐ_Công ty Đại Nam không nằm trong khuôn viên công ty và những người gửi giữ xe ở đó phải có thông báo thì bảo vệ mới phải chịu trách nhiệm. Nhân viên bảo vệ của BĐ_Bảo An không được thông báo về việc phải trông giữ xe của nhân viên tên LQ_Trần Thụy Xuân Duy. Chiếc xe bị mất không có thẻ xe của BĐ_Công ty Bảo An.

       - Không có hồ sơ chứng từ về chiếc xe bị mất.

       Tòa án đã yêu cầu BĐ_Công ty Bảo An cung cấp địa chỉ của ông Phạm Đình Tùng – là nhân viên bảo vệ trực làm việc tại NĐ_Công ty Đại Nam trong ngày mất xe, nhưng BĐ_Công ty Bảo An không cung cấp vì cho rằng ông Tùng đã nghỉ việc nên không biết địa chỉ của ông Tùng Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LQ_Trương Công Định trình bày: Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 là xe do chị ông là bà LQ_Trần Thụy Xuân Duy mua để sử dụng và ông chỉ là người đứng tên trên giấy tờ, do trước đó bà LQ_Duy đã đứng tên mua xe khác. Ngày 29/11/2012, bà LQ_Duy điều khiển chiếc xe đó đi làm như thường lệ. Đến khoảng 9 giờ hơn thì bà LQ_Duy có gọi điện cho ông biết việc bị mất chiếc xe máy nói trên. Sau đó, phía NĐ_Công ty Đại Nam có bồi thường thiệt hại cho ông số tiền là 145.810.000 đồng.

Ông xác nhận là đã nhận đủ số tiền trên. Nay ông Đồngý để NĐ_Công ty Đại Namkhởi kiện BĐ_Công ty Bảo An về việc đòi bồi thường thiệt hại giá trị chiếc xe đã bị mất. Trong vụ việc này ông không có tranh chấp hay yêu cầu gì. Do điều kiện công việc bận rộn nên ông xin được vắng mặt trong các buổi hòa giải và xét xử của Tòa án. Sau này ông không có thắc mắc hay khiếu nại gì.

Người có quền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_ Trần Thụy Xuân Duy trình bày: Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 là xe do bà mua để sử dụng nhưng bà nhờ em trai ruột là ông LQ_ Trương Công Định đứng tên. Ngày 29/11/2012, bà điều khiển chiếc xe đó đi làm và để xe tại bãi xe của NĐ_Công ty Đại Nam như thường lệ. Đến khoảng 9 giờ hơn thì bà được bảo vệ thông báo về việc mất chiếc xe nói trên. Sau đó bà cùng nhân viên bảo vệ (của BĐ_Công ty Bảo An) và đại diện NĐ_Công ty Đại Nam có lên trình báo việc mất xe tại Công

an phường ĐK, Quận X. Sau đó, phía NĐ_Công ty Đại Nam có bồi thường thiệt hại cho em bà là ông LQ_ Trương Công Định với số tiền là 145.810.000 đồng. Bà xác nhận là em bà đã nhận đủ số tiền trên. Nay bà đồng ý để NĐ_Công ty Đại Nam khởi kiện BĐ_Công ty Bảo An về việc đòi bồi thường thiệt hại giá trị chiếc xe đã bị mất. Bà không có tranh chấp hay yêu cầu gì. Do điều kiện công việc bận rộn nên bà cũng xin được vắng mặt trong các buổi hòa giải và xét xử của Tòa án. Sau này bà không có thắc mắc hay khiếu nại gì.

      Tại phiên tòa hôm nay:

      Nguyên đơn yêu cầu BĐ_Công ty Bảo An bồi thường giá trị chiếc Honda SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 là 140.000.000 Đồng ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

      Bị đơn giữ nguyên ý kiến như trên.

      Phía người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LQ_ Trương Công Định và bà LQ_Trần Thụy Xuân Duy có đơn xin vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận TB tham gia phiên tòa trình bày quan điểm về vụ kiện: về mặt tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện triệu tập và tống đạt hợp lệ đúng theo quy định của pháp luật. Và tại phiên tòa ngày hôm nay, Hội Đồngxét xử đã thực hiện đúng theo trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội Đồng xét xử tiếp tục phiên tòa.

XÉT THẤY:

       Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn

cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội Đồng xét xử nhận định:

       Về thẩm quyền giải quyết vụ án: căn cứ theo Điểm b Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự, NĐ_Công ty Đại Nam khởi kiện BĐ_Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Bảo An tại Tòa án nhân dân quận TB là phù hợp với quy định pháp luật.

       Ông LQ_ Trương Công Định và LQ_Trần Thụy Xuân Duy (là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án) có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 199 Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông LQ_Định và bà LQ_Duy.

       Về quan hệ tranh chấp: Xét hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ giữa NĐ_Công ty Đại Nam và BĐ_Công ty Bảo An, đây là quan hệ về hợp đồng cung ứng dịch vụ theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự. NĐ_Công ty Đại Nam và BĐ_Công ty Bảo An đều thừa nhận ngày 10/6/2011 hai bên có ký hợp đồng dịch vụ bảo vệ cho NĐ_Công ty Đại Nam. Thời hạn ký là 01 năm, bắt đầu từ ngày 10/6/2011 đến hết ngày 09/6/2013. Xét thấy hai bên hoàn toàn tự nguyện và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật về nội dung cũng như hình thức hợp đồng nên căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 80 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án công nhận hợp đồng dịch vụ bảo vệ là có thật và hợp pháp. Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu BĐ_Công ty Bảo An bồi thường giá trị chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 bị mất, Hội Đồng xét xử xét thấy:

     Về hiệu lực của hợp đồng dịch vụ bảo vệ giữa NĐ_Công ty Đại Nam và BĐ_Công ty Bảo An: Hai bên đều thừa nhận ngày 29/11/2012 tại trụ sở làm việc của NĐ_Công ty Đại Nam có xảy ra việc mất một chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 hợp đồng dịch vụ số 16/2011/HĐDV-BV ngày 10/6/2011, tại Điều 7 có ghi rõ: “Trước 30 ngày khi hết hạn hợp đồng cả hai bên sẽ cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận hợp đồng. Trường hợp một trong hai bên thanh lý hợp đồng trước hạn thì phải báo cho bên còn lại bằng văn bản trước tối thiểu 30 ngày làm việc và thống nhất bằng biên bản có xác nhận của hai bên. Nếu hết hạn hợp đồng mà

hai bên không có ý kiến thay đổi hoặc ký kết trên biên bản thanh lý hợp Đồngthì mặc nhiên hợp đồng sẽ được gia hạn thêm 01 năm…”. Phía BĐ_Công ty Bảo An cho rằng ngày 10/6/2012 phía BĐ_Công ty Bảo An đã soạn thảo văn bản đề nghị xem xét việc tiếp tục ký hợp đồng nhưng phía nguyên đơn không đồng ý mà vẫn sử dụng dịch vụ của bị đơn. Phía nguyên đơn cho rằng ngày 07/11/2012 BĐ_Công ty Bảo An chỉ gửi thông báo tăng phí dịch vụ bảo vệ. Tới ngày 16/11/2012 NĐ_Công ty Đại Nam có công văn trả lời không đồng ý với mức tăng phí dịch vụ nên sẽ thông báo chấm dứt hợp đồng, chứ không phải là văn bản tiếp tục ký hợp đồng như phía bị đơn trình bày. Nguyên đơn khẳng định thời điểm mất xe hợp đồng dịch vụ giữa hai bên vẫn còn hiệu lực. Phía bị đơn BĐ_Công ty Bảo An cho rằng hợp đồng trên không còn hiệu lực vì đã hết thời hạn và NĐ_Công ty Đại Namkhông Đồngý tiếp tục ký kết hợp Đồngmới nhưng không cung cấp cho Tòa được chứng cứ để chứng minh. Hội Đồng xét xử xét thấy sau ngày 09/6/2012 hai bên vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trong hợp dồng và hai bên không chứng minh được việc có văn bản chấm dứt hợp đồng nên có đủ cơ sở để xác định là hợp Đồngdịch vụ bảo vệ số 16/2011/HĐDV-BV ngày 10/06/2011 giữa NĐ_Công ty Đại Nam và BĐ_Công ty Đại Phúc vẫn còn hiệu lực.

        Phía bị đơn BĐ_Công ty Bảo An cho rằng khu vực để xe của nhân viên NĐ_Công ty Đại Nam phải có danh sách của nhân viên và được Giám đốc NĐ_Công ty Đại Nam ký duyệt thì nhân viên bảo vệ của BĐ_Công ty Bảo An mới chịu trách nhiệm, nhưng phía bị đơn cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh và việc này cũng không được NĐ_Công ty Đại Đồngchấp nhận. Việc BĐ_Công ty Bảo An cho rằng khi giữ xe nhân viên của NĐ_Công ty Đại Nam BĐ_Công ty Bảo An đều có đưa thẻ gửi xe nhưng phía nguyên đơn không công nhận vì cho rằng tất cả nhân viên để xe ở khu vực để xe đều không có thẻ gửi xe. Xét thấy, qua lời khai trong biên bản ghi lời khai của ông Phạm Đình Tùng - là nhân viên bảo vệ của BĐ_Công ty Bảo An trực làm việc tại NĐ_Công ty Đại Nam trong ngày mất xe, lập tại Công an Phường TH Quận X ngày 29/11/2013 ông Tùng có thừa nhận là vào ngày 29/11/2012 cô LQ_Trần Thụy Xuân Duy có gửi chiếc xe gắn máy hiệu Honda SHi mang biển số 59G1-14987 tại bãi gửi xe của cơ quan NĐ_Công ty Đại Nam và ông Tùng có nhận giữ chiếc xe nói trên của cô LQ_Duy. Camera an ninh của NĐ_Công ty Đại Namcó ghi lại là các nhân viên vào gửi xe tại công ty đều không có thẻ gửi giữ xe nên không có cơ sở để xác định việc BĐ_Công ty Bảo An cho rằng khi gửi xe nhân viên bảo vệ của công ty có đưa thẻ giữ xe.

        Xét trong hợp Đồngbảo vệ số 16/2011/HĐDV-BV ngày 10/06/2011, tại điều 2.1 có ghi rõ: “Nhân viên bảo vệ của bên B (BĐ_Công ty Bảo An) bằng các biện pháp nghiệp vụ bảo vệ cùng phối hợp với công an, chính quyền địa phương để đảm bảo an ninh trât tự, giữ gìn tài sản, bao gồm xe của khách hàng và toàn bộ xe nhân viên của bên A (NĐ_Công ty Đại Nam) trong phạm vi khuôn viên, vỉa hè, thuộc trụ sở doanh nghiệp hoạt động…”

        Tại điều 3.12 có ghi: “Trong mọi trường hợp xảy ra mất cắp hay thất thoát tài sản, xe máy (ngoại trừ trường hợp bất khả kháng như quy định tại khoản 3.10 như trên) thuộc phạm vi trách nhiệm bảo vệ của nhân viên bên B thì bên B có nghĩa vụ bồi thường giá trị tương ứng cho bên A…”

        Qua phân tích như trên Hội Đồng xét xử nhận thấy NĐ_Công ty Đại Nam đòi BĐ_Công ty Bảo An bồi thường giá trị chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 là có cơ sở.

        Theo biên bản định giá ngày 27/8/2013 của Hội Đồng định giá thì giá trị chiếc xe gắn máy

nhãn hiệu Honda SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 đã qua sử dụng là 140.000.000 (Một trăm bốn mươi triệu) đồng.

        Tại phiên tòa hôm nay, phía nguyên đơn NĐ_Công ty Đại Nam yêu cầu BĐ_Công ty Bảo An hồi thường giá trị chiếc xe theo như giá trị của Hội Đồng định giá là 140.000.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về án phí Dân sự sơ thẩm:

       Căn cứ Khoản 1 Điều 131 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ

phí Tòa án; Điểm b Mục 3 Phần I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án thì BĐ_Công ty Bảo An phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm trên số tiền 140.000.000 đồng, án phí là 7.000.000 đồng.

       NĐ_Công ty Đại Nam được nhận lại số tiền 3.645.250 Đồng là tiền tạm ứng án phí mà NĐ_Công ty Đại Nam đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AH/2011/01968 ngày 01 tháng 4 năm 2013 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận TB.

       Vì các lẽ trên;

            QUYẾT ĐỊNH:

        Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 29, Điểm b Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều 56, Điều 131, Khoản 1 Điều 182, Khoản 2 Điều 199 Bộ luật Tố tụng Dân Sự;

        Căn cứ Điều 559, Điều 562 BLDS;

        Căn cứ Điều 306 Luật Thương mại;

        Căn cứ Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, Điểm b Mục III Phần I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009);

        1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

        Buộc BĐ_Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Bảo An có trách nhiệm bồi thường giá trị chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda SH 150i mang biển số 59G1 – 14987 bị mất ngày 29/11/2012 là 140.000.000 (Một trăm bốn mươi triệu) Đồng cho NĐ_Công ty cổ phần giải trí Đại Nam ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

        Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

        Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị đơn chưa thi hành thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi trên số tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian và khoản tiền chưa thanh toán.

        2. Án phí Dân sự:

        BĐ_Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Bảo An phải nộp án phí dân sự là 7.000.000 đồng.

        Hoàn lại cho NĐ_Công ty cổ phần giải trí Đại Nam số tiền 3.645.250 Đồnglà tiền tạm ứng án phí mà NĐ_Công ty cổ phần giải trí Đại Nam đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AH/2011/01968 ngày 01 tháng 4 năm 2013 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận TB

        Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

        3. Quyền kháng cáo.

        Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố HCM. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 

Tên bản án

Bản án số 01/2013/KDTM-ST Tranh chấp bồi thường thiệt hại

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English