TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TÒA PHÚC THẨM TẠI HN

Bản án số: 03/2008/KDTM-PT

Ngày: 18/02/2008

V/v: Đòi bồi thường tài sản

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

--------------------

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HN

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Ông Nguyễn Xuân M  - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Ông Phạm Anh H - Hội thẩm nhân dân

3. Ông Hà Tiến D - Hội thẩm nhân dân

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Hoàng Bích N, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN.

Ngày 18 tháng 02 năm 2006, tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 17/2007/TLPT-KDTM ngày 24 tháng 4 năm 2007 về: “Đòi bồi thường tài sản” do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2007/KDTM-ST ngày 06/3/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh TH bị kháng cáo theo quyết định đưa vụ án ra xử số 96/2008/QĐPT ngày 21/01/2008 giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

Ông NĐ_Nguyễn Hữu Quốc, sinh năm 1963;

Trú tại: xóm 5, xã TH, huyện NM, tỉnh HP (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông LVN, Luật sư của Văn

phòng Luật sư QT, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh TH (có mặt).

BỊ ĐƠN:

Ông BĐ_Nguyễn Hoàng Hải, sinh năm 1960;

Trú tại: Xóm 4, xã NT, huyện HN, tỉnh HP (có mặt);

NHẬN THẤY:

Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

      Tháng 6 năm 2005 ông NĐ_Nguyễn Hữu Quốc ký hợp đồng bán sản phẩm cói cho một đối tác ở Trung Quốc, thực hiện hợp đồng này, ông NĐ_Quốc đã mua gom sản phẩm và thuê ông BĐ_Nguyễn Hoàng Hải chủ tàu vận tải thủy biển kiểm soát TH-0433 chở hơn 144 tấn sản phẩm cói các loại sang Trung Quốc với giá cước trọn gói 260.000/tấn, khối lượng cụ thể để trả cước sẽ căn cứ vào xác nhận của bên mua khi nhận hàng, ông NĐ_Quốc có trách nhiệm tập kết hàng tại cảng Mộng Giường, NS, TH, ông BĐ_Hải có trách nhiệm xếp hàng xuống tàu và thực hiện tất cả những quy định của Nhà nước về kinh doanh vận tải thủy, mua bảo hiểm hàng hóa, nộp thuế vận chuyển, giao hàng…Ông NĐ_Quốc cử một người áp tải hàng là ông Phi Thế Hoàng. Việc thỏa thuận giữa ông NĐ_Quốc và ông BĐ_Hải trong đó có khối lượng hàng xếp xuống tàu không được lập thành văn bản. Sau khi xếp hết hàng, khoảng 13 giờ ngày 21/6/2005 tàu TH-0433 do ông Võ Văn Kiệt làm thuyền trưởng rời bến. Khoảng 01 giờ ngày 22/6/2005, tàu TH-0433 bị đắm tại tọa độ 200 15’ vĩ bắc, 106058’ kinh đông thuộc vùng biển Trung Quốc, toàn bộ tàu và hàng hóa bị mất, không có thiệt hại về người.

        Ngày 25/10/2005 ông NĐ_Nguyễn Hữu Quốc khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông BĐ_Nguyễn Hoàng Hải phải bồi thường toàn bộ số hàng bị mất là 144.527 kg cói lõi các loại, trị giá 1.132.254.000 đồng.

      Ngày 19/01/2006 Tòa án nhân dân tỉnh TH xét xử sơ thẩm, buộc ông BĐ_ Nghiêm Hải phải bồi thường cho ông NĐ_Nguyễn Hữu Quốc tiền thiệt hại về số hàng lõi cói là477.440.000 đồng.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông NĐ_Quốc và ông BĐ_Hải đều có kháng cáo bản án này.

     Ngày 12/7/2006, Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân Tối cao tại HN xử hủy quyết định của bản án sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại (Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 137/2006/KDTM-PT).

       Tại bản án số 03/2007/KDTM-ST ngày 06/3/2007, Tòa án nhân dân tỉnh TH đã áp dụng Điểm k Khoản 1 Điều 29, Khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 535, 536, 539, 305 Bộ luật dân sự năm 2005 xử buộc ông BĐ_Nguyễn Hoàng Hải phải bồi thường cho ông NĐ_Nguyễn Hữu Quốc toàn bộ 144.527 kg cói các loại, trị giá 1.132.254.000 đồng. Ông BĐ_Hải phải nộp 28.132.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại ông NĐ_Quốc tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.

       Ngày 11/3/2007, ông BĐ_Hải kháng cáo toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm, ông

cho rằng:

       Ông không chở hàng cho ông NĐ_Quốc vì không có văn bản, chứng từ gì về việc giao nhận và vận chuyển thuê.

       Ở thời điểm đó, ông NĐ_Quốc và Doanh nghiệp Thảo Thảo do bà Vũ Thị Thảo vợ ông làm giám đốc cùng hỏi thuê tàu TH-0433, vì tàu của chung 4 người, mỗi người một ý nên cuối cùng thống nhất cho Doanh nghiệp Thảo Thảo thuê; ông NĐ_Quốc có xếp một số hàng xuống tàu nhưng giữa ông NĐ_Quốc và Doanh nghiệp Thảo Thảo thỏa thuận mua bán hay vận chuyển thuê như thế nào, ông không biết. Ông còn cho rằng tàu của ông không thể chở hết hơn 144 tấn hàng. Tại phiên tòa hôm nay, ông BĐ_Hải không nhận có chở hàng thuê cho ông NĐ_Quốc, ông không phải bồi thường. Luật sư THL bảo vệ quyền lợi cho ông NĐ_Nguyễn Hữu Quốcđề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung khởi kiện của ông NĐ_Quốc, giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

XÉT THẤY:

        Theo trình bày của những người bán hàng cói cho ông NĐ_Quốc:

        Ông Nguyễn Văn Hiếu có giấy xác nhận đã bán cho ông NĐ_Quốc 14.172 kg cói lõi xuôi

3,1 ly với giá 5.200/kg, thành tiền là 73.694.000 đồng (bút lục 29, ngày 01/02/2007).

        Ông Nguyễn Văn Điền viết giấy xác nhận có bán cho ông NĐ_Quốc 4109 kg cói lõi

ngược 2,5 ly x 9000 đ/kg = 36.981.000 và 7524 kg cõi lõi ngược 3,5 ly x 5500 đ/kg =

41.382.000 đồng, cộng hai loại 11.633 kg với số tiền là 78.363.000 đồng, thời điểm bán là

các ngày 17, 18/6/2005 (bút lục 70).

        Ông Vũ Văn Thao xác nhận có bán cho ông NĐ_Quốc 35.570 kg cói lõi ngược 2,5 ly

x 9000 đ/kg = 320.130.000 đồng vào ngày 12/6/2005 (bút lục 68).

        Ông Nguyễn Văn Bảo xác nhận có bán cho ông NĐ_Quốc 25.185 kg cõi lõi ngược 2,5 ly

x 9000 đ/kg = 226.665.000 đ, thời Điểm bán 15/6/2005 (bút lục số 71).

        Ông Nguyễn Sỹ Quyết xác nhận có bán cho ông NĐ_Quốc 14.687 kg cói chẻ tư x 7500

đ/kg = 107.808.000 đ, thời Điểm bán 10/6/2005 (bút lục 72).

        Ông Nguyễn Ngọc Thuận xác nhận có bán cho ông NĐ_Quốc 8478 kg cói 3 ly ngược

2,5 ly x 9000 đ/kg = 163.413.000 đ, thời Điểm bán 12/6/2005 (bút lục số 75).

      Ông Lưu Xuân xác nhận có gửi ông NĐ_Quốc 10.500 kg cói để ông

NĐ_Quốc nhập cùng với số hàng của ông NĐ_Quốc cùng một chuyến bán cho đối tác ở Trung Quốc.

      Như vậy, nếu theo các xác nhận của những người trên, thì tổng số cói các loại mà ông NĐ_Quốc có ở thời Điểm trước 20/6/2006 là 144.582 kg.

Theo xác nhận của những người vận chuyển số hàng trên từ nơi lấy hàng đến bến tàu:

       Ông Phạm Bắc, lái xe BKS 36L-9174 xác nhận có chở cho ông NĐ_Quốc 5 chuyến = 27.027 kg cói các loại từ nhà anh Hạnh (ở xã NT), từ kho của ông NĐ_Quốc và từ nhà ông Đăng (ở xã NT) ra bến vào các ngày 20 và 21/6/2005; tất cả số hàng này ông Bắc đều giao cho ông BĐ_Hải là chủ tàu nhận (bút lục 20, 22).

       Ông Trịnh Xuân Nhuần, lái xe ô tô BKS 36L-5287 xác nhận có chở cho ông NĐ_Quốc 8 chuyến = 35.000 kg vào các ngày 19, 20/6/2005 (bút lục 21) và chở cho ông Phòng 3 chuyến = 10.500 kg cói lõi xuôi 3,1 ly từ nhà anh Hiếu ra bến (bút lục 82), tất cả đều

giao cho ông BĐ_Hải là chủ tàu TH 0433 nhận. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 06/3/2007 ông Nhuần khai như đã xác nhận trước đây, ông còn khai: “…Ra đến đây (phiên tòa) chúng tôi mới biết có Doanh nghiệp Thảo Thảo…”.

       Ông Phạm Quốc Quốc xác nhận có chở cho ông NĐ_Quốc 12 chuyến hàng cói từ kho nhà ông NĐ_Quốc ra bến tàu vào các ngày 19, 20, 21/6/2005 tất cả là 72.000.000 kg, đều giao cho ông BĐ_Hải (tại phiên tòa sơ thẩm ngày 06/3/2007 ông Quốc khẳng định không có ai chở hàng cho Doanh nghiệp Thảo Thảo, chỉ chở cho ông NĐ_Quốc... tàu hàng đó của ông BĐ_Hải chỉ có 3 anh em chúng tôi chở…”, bút lục 127).

Như vậy, theo xác nhận của 3 người vận chuyển thì tổng số cói của ông NĐ_Quốc là 144.527 kg.

Theo lời khai của những người xếp hàng xuống tàu:

       Ông Phạm Văn Tình viết giấy xác nhận vào ngày 28/6/2005 (bút lục 18), ngày

02/01/2007 (bút lục 23) và tại phiên tòa sơ thẩm lần 2, ông Hoàng khẳng định: Tổ bốc hàng

của ông gồm 10 người, vào các ngày 19, 20/6/2005 có nhận bốc khoảng 144 tấn hàng cói lõi

xuống tàu TH-0433 của ông BĐ_Sơn; số hàng này của ông NĐ_Quốc, do ông Oanh đại diện

cho ông NĐ_Quốc giao cho ông BĐ_Hải chỉ huy vận chuyển; tiền công bốc xếp là 1.200.000 đ do ông BĐ_Hải chủ tàu chi trả cho tổ.

Về khối lượng hàng, đối chiếu giữa bản án sơ thẩm với lời khai của những người bán

và chở hàng cho ông NĐ_Quốc có sự chênh lệch, cụ thể như sau:

       Loại cói lõi xuôi 3,1 ly: Bản án sơ thẩm ghi là 26.507 kg, nhưng theo lời khai của người bán là ông Nguyễn Văn Hiếu xác nhận bán cho ông NĐ_Quốc 14.172 kg, lời khai của ông Trịnh Xuân Nhuần xác nhận có chở cho ông Phòng 10.500 kg từ nhà ông Hiếu ra bến. Như vậy, khối lượng cói lõi xuôi 3,1 ly chỉ có 24.672 kg chứ không phải là 26.507 kg như khởi kiện của ông NĐ_Quốc và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm.

       Loại cói lõi ngược 2,5 ly: Án sơ thẩm ghi là 83.000 kg nhưng theo lời khai của những người bán là 83.021 kg chênh lệch 21 kg, quy tiền là 189.000 đ.

       Loại cói lõi ngược 3,5 ly: Án sơ thẩm ghi là 11.855 kg; nhưng theo lời khai của người bán là 13.724 kg, chênh lệch 1.869 kg thành tiền là 10.279.500 đ.

      Hai loại cói trên thừa ra, ông NĐ_Quốc bị thiệt nhưng không kháng cáo, cho nên Hội

đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên khối lượng mà tòa sơ thẩm đã xác định.

        Theo hồ sơ đăng kiểm và biên bản làm việc giữa Chi cục đăng kiểm số 12 tỉnh TH với Tòa án nhân dân tỉnh TH ngày 17/8/2007 thì tàu TH-0433 của ông BĐ_Hải có hầm chở hàng dung tích 142 m3, nếu chở loại hàng này thì không thể xếp đủ khối lượng 144 tấn trong hầm hàng của tàu mà phải xếp hàng lên mặt boong tàu. Thực tế thì khi vận chuyển loại hàng này ở địa bàn huyện NS, TH cả chủ hàng và chủ tàu vẫn xếp hàng lên mặt boong tới mức có thể, miễn là không làm cản trở tầm nhìn của người điều khiển tàu (có ảnh minh họa). Cũng theo cách tính toán của Hội đồng định giá (do Tòa án nhân dân tỉnh TH quyết định thành lập theo ủy thác của Tòa án nhân dân Tối cao) thì Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định với khối lượng là 142.692 kg có thể tích khoảng 432,844 m3; trong đó, xếp ở dưới hầm hàng được 142 m3 còn 290,844 m3, với cách xếp thông thường, hoàn toàn có thể xếp trên mặt boong và trên nóc buồng lái vì tàu có chiều dài 32,5 m, rộng 5,75 m (như ảnh minh họa). Phương pháp xác định thể tích của mỗi loại hàng để tính khối lượng góp phần làm rõ hơn và có căn cứ tính giá lời khai của những người bán hàng và chở hàng cho ông NĐ_Quốc là khách quan, qua đó chấp nhận nội dung khởi kiện của ông NĐ_Quốc và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm cơ bản là có căn cứ; sự giảm về khối lượng như tính toán ở trên, ông NĐ_Quốc phải chịu khi mà hai bên không lập văn bản, chứng từ vận chuyển. Từ những căn cứ ở trên, Hội đồng xét xử xác định ông NĐ_Nguyễn Hữu Quốc đã thuê ông BĐ_Nguyễn Hoàng Hải chở cói các loại từ cảng Mộng Giường, NS, TH sang Trung Quốc

với khối lượng như sau:

 Cói lõi xuôi 3,1 ly: 24.672 kg x 52.000 đ/kg = 128.294.400 đ.

 Cói lõi ngược 2,5 ly: 83.000 kg x 9000 đ/kg = 747.000.000 đ.

 Cói lõi ngược 3,5 ly: 11.855 kg x 5500 đ/kg = 65.202.500 đ.

 Cói lõi ngược 3 ly: 8.478 kg x 8500 đ/kg = 72.063.000 đ.

 Cói chẻ tư: 14.687 kg x 7500 đ/kg = 110.152.500 đ.

Tổng cộng 142.692 kg = 1.122.712.400 đ.

        Theo kết quả xác minh tại Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Trung ương thì vào khoảng thời gian 01h ngày 22/6/2005 ở vùng biển có tọa độ 200 15’ N – 1060 58 E không có bão, lốc xoáy. Điều này cũng phù hợp với xác nhận ban đầu của anh Nguyễn Văn Thông thuyền trưởng, anh Trịnh Trường Giang thuyền viên không nói gì đến việc tàu bị đắm do lốc xoáy mà chỉ nói: “1 giờ 30 phút ngày 22/6/2005 thì tàu bị nước ngập buồng lãi, phụt khói đen ra và chết máy, tàu từ từ chìm…” (bút lục số 19, 33). Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận ý kiến của ông BĐ_Hải và ý kiến của anh Thông sau này về việc tàu bị đắm do lốcxoáy.

        Cũng theo trả lời của Chi cục đăng kiểm số 12 tỉnh TH thì tàu TH-0433 của ông BĐ_Hải chỉ được phép hoạt động ở vùng sông SII, đã quá hạn đăng kiểm từ 12/02/2004, không được phép chạy ra biển và càng không được phép chạy sang vùng biển Trung Quốc. (Công văn số 025/CC12 ngày 13/8/2007).

Từ những chứng minh ở trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định nguyên nhân đắm tàu không phải do thiên tai mà do tàu của ông BĐ_Hải không phải là tàu đi biển, không đảm bảo bảo điều kiện kỹ thuật để vận hành, đã quá hạn đăng kiểm theo quy định, nhưng ông BĐ_Hải vẫn sử dụng tàu để kinh doanh vận tải, dẫn đến thiệt hại về tài sản cho cả ông và ông NĐ_Quốc; nguyên nhân dẫn đến thiệt hại hoàn toàn do lỗi của ông BĐ_Hải là người kinh doanh vận tải thủy nhưng cố ý không tuân thủ những quy định về vận tải đường thủy nội địa, vận tải đường biển; do đó, ông BĐ_Hải phải bồi thường toàn bộ thiệt hại hàng hóa cho ông NĐ_Quốc với khối lượng 142.692 kg cói các loại, tổng cộng là 1.122.712.400 đ. Trong quátrình giải quyết vụ án, lúc thì ông BĐ_Hải khai rằng ông cho ông NĐ_Quốc mượn tàu, lúc thì ông khai cho Doanh nghiệp Thảo Thảo (do vợ ông làm Giám đốc) thuê tàu, còn ông NĐ_Quốc hợp đồng vận tải với Doanh nghiệp Thảo Thảo như thế nào ông không biết… Chính sự thiếu nhất quán này của ông BĐ_Hải đã cho thấy sự không khách quan của ông BĐ_Hải nhằm thoái thác trách nhiệm dân sự của mình trước yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông NĐ_Quốc.

Riêng số tiền cước vận chuyển, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điều 538 Bộ luật dân sự, buộc ông NĐ_Quốc phải trả ông BĐ_Hải số tiền cước vào thời điểm toàn bộ số hàng được chuyển lên tàu, cụ thể là 142.692 kg x 260.000 đ/1000 kg = 37.099.920 đ. Số tiền này sẽ được trừ vào số tiền mà ông BĐ_Hải phải bồi thường cho ông NĐ_Quốc.

Về án phí, vì có sự thay đổi khối lượng hàng và ông NĐ_Quốc phải trả tiền cước vận chuyển cho ông BĐ_Hải nên Hội đồng xét xử sẽ giảm án phí sơ thẩm cho ông BĐ_Hải và buộc ông NĐ_Quốc phải chịu án phí sơ thẩm ở phần tiền cước vận chuyển; ông BĐ_Hải và ông NĐ_Quốc không phải chịu án phí phúc thẩm, kể cả tiền tạm ứng án phí phúc thẩm do hai ông kháng cáo bản án sơ thẩm trước đây vì bản án này đã bị hủy.

Vì các lẽ trên, căn cứ Khoản 2 Điều 275, Điều 276 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH:

       Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của ông BĐ_Nguyễn Hoàng Hải, sửa quyết định của bản án sơ thẩm như sau:

       Áp dụng các Điều 535, Khoản 1 Điều 536, Khoản 2 Điều 538, Khoản 1 Điều 546,

Điều 305 Bộ luật dân sự, xử buộc ông BĐ_Nguyễn Hoàng Hải phải bồi thường cho ông

NĐ_Nguyễn Hữu Quốc số tài sản bị thiệt hại và 142.692 kg cói các loại trị giá 1.122.712.400 đ.

       Ông NĐ_Nguyễn Hữu Quốc phải trả ông BĐ_Nguyễn Hoàng Hải tiền cước vận chuyển số hàng trên là 37.099.920 đ.

       Đối trừ, ông BĐ_Hải còn phải trả ông NĐ_Quốc số tiền là 1.085.612.480 đ. Ông BĐ_Hải phải nộp 28.122.712 đ án phí sơ thẩm dân sự. Ông BĐ_Hải không phải nộp án phí phúc thẩm dân sự đã nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh TH theo Biên lai thu tiền số 000270 ngày 13/3/2007 và 200.000 đ theo Biên lai thu tiền số 18885 ngày 26/01/2006.

        Ông NĐ_Quốc phải nộp 1.854.996 đ án phí sơ thẩm dân sự. Trả lại ông NĐ_Quốc 500.000 đ tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh TH theo Biên lai thu tiền số 09601 ngày 02/11/2005 và 200.000 đ tạm ứng án phí kháng cáo theo Biên lai thu tiền số 18884 ngày 25/01/2006.

        Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, không bị cải sửa có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Tên bản án

Bản án số 03/2008/KDTM-PT Đòi bồi thường tài sản

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English