TÒA ÁN NHÂN DÂN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

QUẬN 10

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

THÀNH PHỐ HCM

-----------------------------------

----------------------

 

Số: 05/2011/LĐ-ST

Ngày: 23/8/2011

Về vụ án: “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 - THÀNH PHỐ HCM

Với Hội đồng gồm có:

- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:1.

Đinh Ngọc Thu Hà

- Các Hội thẩm nhân dân:

2.

Nguyễn Thị Th

  3 Ông Nguyễn Vạn Phát

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Nguyễn Thị Thanh Nam –Cán bộ Toà án nhân dân Quận 10 TP.Hồ Chí Minh.

Ngày 23/8/2011 tại Tòa án nhân dân Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2011/TLST-LĐ ngày 12/5/2011 về tranh chấp Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2011/QĐST-LĐ ngày 04 tháng 8 năm 2011 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

NĐ_Bùi Trung Ngân Sinh năm 1976, Quốc tịch Đức Địa chỉ : Echinger 7C, 80805 Munich, Cộng Hòa Liên Bang Đức.

Tạm trú: Phòng 31, Nhà A 6, Ngõ 120 HQV, Q. CG, HN.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:

Ông NVĐ luật sư của văn phòng Luật sư VN thuộc Đoàn luật sư tỉnh ĐN. Ông NHT luật sư của văn phòng Luật sư VN thuộc Đoàn luật sư tỉnh ĐN.

Bị đơn:

BĐ_Công ty Tân Việt Á

Địa chỉ : 259B HBT, Phường 6, Quận 10, Tp.HCM Đại diện: Bà Võ Thị Kiều Thu, GUQ ngày 03/6/2011

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:

Ông NVĐ luật sư của văn phòng Luật sư THẾ GIỚI LUẬT thuộc Đoàn luật sư Tỉnh BR-VT.

NHẬN THẤY:

Trong đơn khởi kiện ngày 04/5/2011 được bổ sung tại biên bản ngày 06/6/2011, 16/6/2011, 30/6/2011, 01/8/2011, 04/8/2011 và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà NĐ_Bùi Trung Ngân trình bày việc BĐ_Công ty Tân Việt Á đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật với bà nên nguyên đơn là bà NĐ_Bùi Trung Ngân yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn là BĐ_Công ty Tân Việt Á trả lương cho bà trong thời gian bà không được làm việc là 11,5 tháng lương và bồi thường 02 tháng lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Tổng cộng là 167.339.250 đồng trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật, bà không yêu cầu Công ty nhận bà lại làm việc.

Theo nguyên đơn là bà NĐ_Bùi Trung Ngân trình bày thì:

Ngày 08/3/2010 bà bắt đầu làm việc cho BĐ_Công ty Tân Việt Á ( Việt Nam) với vị trí thư ký phiên dịch tại dự án Đường Cao Tốc HN – Hải Phòng theo thỏa thuận tuyển dụng được ký ngày 8/3/2010 được ký bởi ông Châu Dung Đạt Tổng Giám đốc công ty. Thời gian thử việc của bà là 02 tháng từ ngày 08/3/2010 đến hết ngày 07/5/2010. Lương thỏa thuận trong thời gian thử việc là 9.535.000 đồng/ tháng, lương thỏa thuận sau thử việc là 12.395.000 đồng/ tháng. Trong thời gian làm việc, vị trí là thư ký Giám đốc dự án ( ông Michael Moloney), kiêm thư ký trưởng dự án. Khoảng 16h30 ngày 14/5/2010 Chánh văn phòng mới của dự án ra lệnh cho bà vào phòng họp của Dự án để trợ giúp đối tác Vitec làm bảng chấm công cho nhân viên của họ, nếu họ cần. Lúc đó, bà đang hoàn thiện báo cáo gởi chủ đầu tư cho kịp giờ nên đã trả lời cô ta rằng bà đang bận, đó là việc của cô ta, và bà sẽ hỗ trợ lấy được chữ ký xác nhận của Chủ đầu tư vào bảng chấm công đó. Thứ 2 ngày 17/5/2010 ông Robert Branch phó tổng giám đốc từ Thành phố Hồ Chí Minh ra HN và yêu cầu Giám đốc dự án ra Quyết định sa thải bà. Giám đốc dự án đã không đồng ý và xảy ra to tiếng giữa hai người. Ngày 18/5/2010 Giám đốc dự án viết 1 thư nội bộ cảnh báo bà hơn 17 giờ ngày 20/5/2010 bà nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng lao động được gởi qua Fax từ trụ sở chính được ký bởi ông Robert Branch và có hiệu lực vào cuối giờ chiều ngày 21/5/2010. Không đồng ý với những điều trong thông báo, bà đã email cho ông Robert Branch trả lời từng vấn đề nêu trong đó và yêu cầu được gặp mặt với những người ra Quyết định để làm rõ vấn đề nhưng không có phản hồi. Ngày 22/5/2010 bà vẫn đến Công ty và gởi tiếp 1 lá thư cùng 1 bản Fax cho ông Robert Branch, phía Công ty vẫn im lặng. Ngày 24/5/2010, ông Robert Branch có gởi email nói là gặp bà là sẽ thương lượng, sau khi bà gởi thêm 1 email thể hiện mong muốn được gặp mặt hòa giải thì ông Robert Branch từ chối. Sau đó, cả hai phía không có hành động nào thêm về việc này. Từ ngày 24/5/2010 bà đã không đến Công ty làm việc, bà đã nhận lương của Công ty thanh toán đến hết ngày 31/5/2010. Trong thời gian làm việc, Công ty và bà không có thỏa thuận về việc gia hạn thời gian thử việc và cũng không có thỏa thuận hết thời gian thử việc thì Công ty sẽ ký Hợp đồng lao động với bà thuộc loại gì. Sau khi bà nghỉ việc, các nhân viên còn ở lại được ký Hợp đồng lao động có thời hạn 1 năm. Bà xác nhận có nhận được email của ông Michael Moloney gởi cả nhóm thư ký vào ngày 05/4/2010 trong thời gian bà đang thử việc. Ông Michael Moloney có nhắc nhở tất cả mọi người khi có những vấn đề cá nhân hoặc hành chính nội bộ, không nên nói những vấn đề đó cho người ngoài, trước hết phải thảo luận vấn đề đó với Giám đốc văn phòng và với ông trong vai trò là

trưởng nhóm. Nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ là bằng chứng bị sa thải, những người nào không thể làm việc hòa đồng với những thành viên khác trong nhóm sẽ bị yêu cầu nghỉ việc.

Bà xác định vào thời điểm làm thử việc và hiện nay bà có quốc tịch Đức, không còn quốc tịch Việt Nam vì Đức không cho công dân mang hai quốc tịch. Bà về Việt Nam sinh sống chỉ đăng ký tạm trú, có xác nhận của Công an Phường Nghĩa Tân là bà NĐ_Ngân đang tạm trú tại 31- A6, Nghĩa Tân, CG, HN.

Ngày 22/4/2010, bà Vũ Thị Thu Trang là thư ký văn phòng đại diện của BĐ_Công ty Tân Việt Á tại HN, có gửi mail cho bà NĐ_Ngân yêu cầu bà NĐ_Ngân phải hoàn chỉnh các mẫu như đơn xin cấp giấy phép lao động, sơ yếu lý lịch, giấy chứng nhận sức khỏe và bà NĐ_Ngân đã thực hiện các việc này và gửi cho bà Trang. Hiện nay, bà NĐ_Ngân chỉ còn giữ lại phiếu lý lịch tư pháp ngày 25/3/2010 của Sở tư pháp – UBND Tp.HN cấp để xin cấp giấy phép lao động. Bà không có văn bản nào thể hiện bà Trang đã giữ các giấy tờ bà đã nộp. Bà xác định bà không có giấy tờ gì chứng minh công ty đã xin được cấp giấy phép lao động để ký hợp đồng với bà. Bà và công ty cũng chưa ký kết hợp đồng lao động với nội dung và thời hạn như giấy phép lao động cho phép.

Nay bà không yêu cầu Công ty nhận bà lại làm việc, bà yêu cầu Công ty trả lương cho bà trong thời gian bà không được làm việc là 11,5 tháng lương và bồi thường 02 tháng lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Tổng cộng là 167.339.250 đồng trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Bà nộp đơn kiện BĐ_Công ty Tân Việt Á tại Tòa án nhân dân thành phố HN vào ngày 29 tháng 4 năm 2011, sau đó do không nghe thụ lý đơn kiện nên bà đã nộp đơn kiện tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và được hướng dẫn miệng là nộp đơn tại Tòa án nhân dân Quận 10. Bà đã nộp đơn và Tòa án nhân dân Quận 10 đã nhận đơn kiện của bà có đóng dấu vào đơn kiện là ngày 10 tháng 5 năm 2011 và Tòa án nhân dân Quận 10 đã thụ lý đơn kiện của bà vào ngày 12 tháng 5 năm 2011. Ngày 28 tháng 6 năm 2011, bà được biết Tòa án nhân dân thành phố HN đã thụ lý đơn kiện của bà và bà đã nộp đơn xin rút đơn kiện tại Tòa án nhân dân thành phố HN vào ngày 28 tháng 6 năm 2011. Tòa án nhân dân thành phố HN đã ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 01/2011/QĐST ngày 29/6/2011. Bà không có kháng cáo Quyết định này và Quyết định này đã có hiệu lực pháp luật.

Bà Võ Thị Kiều Thu đại diện Bị đơn là BĐ_Công ty Tân Việt Á trình bày : Ngày 08/3/2010 BĐ_Công ty Tân Việt Á (Việt Nam) có gởi thư tuyển dụng số DC/L5010/ADM/HN thông báo đồng ý nhận bà NĐ_Bùi Trung Ngân vào Công ty làm việc với chức danh thư ký phiên dịch tại dự án Đường Cao Tốc HN –Hải Phòng thời gian thử việc là 02 tháng, đồng thời cũng gởi kèm bảng điều khoản tuyển dụng trong đó ghi rõ các nội dung hai bên sẽ dự kiến ký kết hợp đồng lao động, nếu trong thời gian thử việc bà NĐ_Ngân đáp ứng các công việc mà Công ty đã giao. Trong quá trình thử việc, bà NĐ_Ngân có kết quả thử việc không đạt yêu cầu thể hiện qua email ngày 05/4/2010 mà ông Michael Moloney gởi trong thời gian bà đang thử việc. Ông Michael Moloney có nhắc nhở khi có những vấn đề cá nhân hoặc hành chính nội bộ, không nên nói những vấn đề đó cho người ngoài, trước hết phải thảo luận vấn đề đó với Giám đốc văn phòng và với ông trong vai trò là trưởng nhóm. Nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ là bằng chứng bị sa thải, những người nào không thể làm việc hòa đồng với những thành viên khác trong nhóm sẽ bị yêu cầu nghỉ việc và thư cảnh báo nội bộ nhắc nhở về thái độ làm việc, về sự thiếu hợp tác và thường xuyên gây mất đoàn kết với đồng nghiệp. Khi kết thúc thời hạn thử việc, ngày 20/5/2010 công ty đã có gửi văn bản số REB/L5/35/ADM/PT thông báo kết quả thử việc không đạt yêu cầu và Công ty đã thông báo chấm dứt thỏa thuận lao động và không ký kết hợp đồng lao động. Trong thời gian thử việc bà NĐ_Ngân đã nhận lương theo thỏa thuận.

Trong thời gian thử việc, bà NĐ_Ngân chỉ là thư ký dự án. Ông Robert Branch được toàn quyền ra Quyết định sa thải bà NĐ_Ngân theo giấy ủy quyền số DC/L561/K7 mà không cần Giám đốc dự án ra Quyết định. Bà xác nhận bà Vũ Thị Thu Trang là thư ký hành chính của BĐ_Công ty Tân Việt Á tại HN, có gửi mail cho bà NĐ_Ngân yêu cầu bà NĐ_Ngân phải hoàn chỉnh các mẫu như đơn xin cấp giấy phép lao động, sơ yếu lý lịch, giấy chứng nhận sức khỏe nhưng không có văn bản nào thể hiện bà NĐ_Ngân đã nộp lại các giấy tờ này cho bà Trang. Công ty cũng không có hồ sơ để xin cấp Giấy phép lao động. Công ty và bà NĐ_Ngân chưa ký hợp đồng lao động vì không được cấp giấy phép. Công ty có nhận Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 01/2011/QĐST ngày 29/6/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HN. Công ty không có kháng cáo Quyết định này và Quyết định này đã có hiệu lực pháp luật.

Nay Công ty không đồng ý với yêu cầu của bà NĐ_Ngân.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:

Ông NHT luật sư của văn phòng Luật sư VN thuộc Đoàn luật sư tỉnh ĐN trình bày: Yêu cầu của bà NĐ_Ngân đòi BĐ_Công ty Tân Việt Á phải thanh toán số tiền 167.339.250 đồng là có căn cứ vì bà NĐ_Ngân vào làm việc cho công ty có thỏa thuận thử việc. Hết ngày 07/5/2010, công ty không thông báo kết quả thử việc và bà NĐ_Ngân vẫn tiếp tục làm việc như vậy công ty đã chấp nhận bà NĐ_Ngân làm việc chính thức. Tính chất công việc của bà NĐ_Ngân là thường xuyên. Việc công ty thông báo chấm dứt hợp đồng lao động với bà NĐ_Ngân là không có căn cứ và trái pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu của bà NĐ_Ngân. Về giấy phép lao động, Công ty là người sử dụng lao động phải làm thủ tục đề nghị cấp giấy phép. Lý do trong thông báo chấm dứt hợp đồng lao động là bà NĐ_Ngân không hoàn thành nhiệm vụ chứ không phải không hòan thành các thủ tục để công ty làm thủ tục xin cấp giấy phép lao động.

Ông NVĐ luật sư của văn phòng Luật sư VN thuộc Đoàn luật sư tỉnh ĐN trình bày :

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 điều 111 Bộ luật lao động để xem xét vì công ty chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Vào thời điểm chấm dứt bà NĐ_Ngân còn nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Việc bà NĐ_Ngân chứng minh đã giao đủ hồ sơ cho Công ty để làm thủ tục xin cấp giấy phép là không thể vì lúc đó bà NĐ_Ngân chỉ đang thử việc, không nghĩ đến tranh chấp mà yêu cầu Công ty phải ký nhận khi bàn giao hồ sơ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà NĐ_Ngân.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn :

Ông NVĐ luật sư của văn phòng Luật sư THẾ GIỚI LUẬT thuộc Đoàn luật sư Tỉnh BR-VT trình bày : Giữa bà NĐ_Ngân và Công ty có phát sinh quan hệ lao động. Thư tuyển dụng và điều kiện tuyển dụng chỉ là căn cứ ban đầu để thực hiện các thủ tục tiếp theo theo qui định pháp luật. Bà NĐ_Ngân chỉ có quốc tịch duy nhất là quốc tịch Đức.Vào thời điểm thử việc 08/3/2010 bà NĐ_Ngân là người nước ngòai. Bà NĐ_Ngân phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Bà NĐ_Ngân không thuộc trường hợp được miễn cấp giấy phép lao động do đó bà NĐ_Ngân muốn làm việc tại Việt Nam thì bà NĐ_Ngân phải có giấy phép lao động do Sở lao động thương binh xã hội cấp. Khi có giấy phép lao động bà NĐ_Ngân mới được coi là hợp pháp để ký kết hợp đồng lao động tại Việt Nam. Nhà nước ta xử lý rất nghiêm trường hợp người lao động nước ngoài không có giấy phép lao động. Khi đến tuyển dụng lao động, bà NĐ_Ngân phải có hồ sơ tuyển dụng lao động nộp cho Công ty đầy đủ ngay từ ban đầu. Trong đó có một giấy tờ quan trọng là lý lịch tư pháp. Ngày 08/3/2010 bà NĐ_Ngân chưa có lý lịch tư pháp. Bà NĐ_Ngân phải có đầy đủ các giấy tờ theo qui định của pháp luật thì Công ty mới có đủ hồ sơ làm thủ tục đề nghị xin cấp giấy phép lao động cho bà NĐ_Ngân. Bà Trang có gởi email cho bà NĐ_Ngân nhắc về việc nộp hồ sơ cho Công ty. Đến ngày 20/5/2010 bà NĐ_Ngân vẫn chưa cung cấp được cho Công ty lý lịch tư pháp. Bà NĐ_Ngân đã trình bày đã gởi cho bà Trang. Bà NĐ_Ngân không gởi cho ông Châu Dung Đạt là người có thẩm quyền trong Công ty và ông Đạt cũng không có ủy quyền cho bà Trang, bà NĐ_Ngân không có biên nhận nộp hồ sơ đầy đủ cho Công ty. Sau thời gian thử việc bà NĐ_Ngân không có giấy phép lao động do đó Công ty không thể ký kết hợp đồng lao động với bà NĐ_Ngân theo các mẫu hợp đồng lao động do nhà nước qui định. Bà NĐ_Ngân mới nộp lý lịch tư pháp vào tháng 7/2011 tại Tòa án khi xảy ra tranh chấp. Trách nhiệm của Công ty là phải xin giấy phép lao động nhưng với điều kiện là bà NĐ_Ngân phải cung cấp đầy đủ hồ sơ cho Công ty, do đó Công ty từ chối việc ký kết hợp đồng lao động với bà NĐ_Ngân là đúng pháp luật. Hết thời gian bà NĐ_Ngân thử việc Công ty đã ra thông báo chấm dứt hợp đồng lao động vì bà NĐ_Ngân không hoàn thành nhiệm vụ và thực tế không có giấy phép lao động. Giữa bà NĐ_Ngân và Công ty không có quan hệ lao động theo đúng nghĩa và đúng quan hệ lao động. Phía nguyên đơn cho rằng thư tuyển dụng là hợp đồng lao động là không đúng. Đây chỉ là điều kiện cần, không phải điều kiện đủ. Thư tuyển dụng là hợp đồng Dân sự vô hiệu vi phạm cả hình thức lẫn nội dung ngay từ khi ký kết. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữa bà NĐ_Ngân và Công ty chưa có hợp đồng lao động. Bà NĐ_Ngân cho rằng Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là không đúng, bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

XÉT THẤY:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án

Quan hệ tranh chấp giữa bà NĐ_Bùi Trung Ngân và BĐ_Công ty Tân Việt Á là tranh chấp đơn phương chấm dứt lao động. Do các bên không tự giải quyết tranh chấp phát sinh nên nguyên đơn là bà NĐ_Bùi Trung Ngân khởi kiện. Bà NĐ_Ngân có quốc tịch Đức nhưng có mặt tại Việt Nam vào thời điểm thụ lý và giải quyết vụ kiện, BĐ_Công ty Tân Việt Á có trụ sở chính tại Quận 10, Tp.HCM. Do đó Tòa án nhân dân Quận 10 thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền

2. Về các yêu cầu của các đương sự

Về yêu cầu của bà NĐ_Bùi Trung Ngân buộc Công ty BĐ_Công ty Tân Việt Á trả lương cho bà trong thời gian bà không được làm việc là 11,5 tháng lương và bồi thường 02 tháng lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Tổng cộng là 167.339.250 đồng trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Bà không yêu cầu Công ty nhận bà lại làm việc.

Hội đồng xét xử xét thấy ngày 08/3/2010 bà NĐ_Bùi Trung Ngân bắt đầu làm việc cho BĐ_Công ty Tân Việt Á (Việt Nam) với vị trí thư ký phiên dịch tại dự án Đường Cao Tốc HN – Hải Phòng theo thỏa thuận tuyển dụng được ký ngày 8/3/2010 được ký bởi ông Châu Dung Đạt Tổng Giám đốc công ty. Thời gian thử việc của bà là 02 tháng từ ngày 08/3/2010 đến hết ngày 07/5/2010. Lương thỏa thuận trong thời gian thử việc là 9.535.000 đồng/ tháng, lương thỏa thuận sau thử việc là 12.395.000 đồng/ tháng. Hết thời gian thử việc, bà NĐ_Ngân vẫn làm việc cho Công ty. Theo qui định tại Điều 32 Bộ luật lao động và theo khoản 4 Điều 7 Nghị định 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về Hợp đồng lao động thì hết thời gian thử việc, người sử dụng lao động là BĐ_Công ty Tân Việt Á (Việt Nam) thông báo kết quả làm thử cho người lao động là bà NĐ_Ngân. Nếu đạt yêu cầu hai bên phải tiến hành ký kết hợp đồng lao động hoặc người lao động không được thông báo mà vẫn tiếp tục làm việc thì người đó đương nhiên được làm việc chính thức. Thực tế, ngày 20/5/2010 BĐ_Công ty Tân Việt Á (Việt Nam) mới thông báo chấm dứt hợp đồng lao động với bà NĐ_Ngân, trễ hơn qui định 13 ngày do đó bà NĐ_Ngân đương nhiên được xem là làm việc chính thức tại BĐ_Công ty Tân Việt Á ( Việt Nam). Tuy nhiên, vào thời điểm thử việc và hết thời gian thử việc, bà NĐ_Ngân là người nước ngoài có quốc tịch Đức do vậy để được làm việc và ký kết hợp đồng lao động tại Việt Nam hợp pháp, bà NĐ_Ngân phải được cấp giấy phép lao động. Theo qui định của pháp luật về việc tuyển dụng người nước ngoài theo Hình thức lao động thì bà NĐ_Ngân làm việc tại Việt Nam phải nộp hồ sơ đăng ký dự tuyển lao động, doanh nghiệp tiếp nhận hồ sơ và làm thủ tục đề nghị cấp giấy phép lao động. Khi được cấp giấy phép lao động, người nước ngoài và Doanh nghiệp phải tiến hành giao kết Hợp đồng bằng văn bản, nội dung trong Hợp đồng lao động không trái với nội dung đã ghi trong giấy phép lao động. Hồ sơ đăng ký gồm Phiếu đăng ký dự tuyển lao động của người nước ngoài, phiếu lý lịch tư pháp; bản lý lịch tư thuật, giấy chứng nhận sức khỏe, bản sao bằng cấp, chứng nhận trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao và 03 ảnh 3 x 4.

Bà NĐ_Ngân trình bày chỉ gửi cho công ty đơn xin cấp giấy phép lao động, sơ yếu lý lịch, giấy chứng nhận sức khỏe và bà NĐ_Ngân đã thực hiện các việc này và gửi cho bà Trang là nhân viên của công ty. Hiện nay, bà NĐ_Ngân chỉ còn giữ lại phiếu lý lịch tư pháp ngày 25/3/2010 của Sở tư pháp – UBND Tp.HN cấp để xin cấp giấy phép lao động. Bà không có văn bản nào thể hiện bà Trang đã giữ các giấy tờ bà đã nộp. Công ty không thừa nhận nhận các văn bản này của bà NĐ_Ngân. Hơn nữa, hồ sơ của bà NĐ_Ngân gửi không đủ để công ty xin giấy phép lao động theo qui định của pháp luật. Vào thời điểm ký hợp đồng thử việc, bà NĐ_Ngân được phép vào Việt Nam với mục đích khác. Visa của bà NĐ_Ngân vào Việt Nam ký hiệu là C. Cả bà NĐ_Ngân và BĐ_Công ty Tân Việt Á (Việt Nam) đều xác nhận là chưa được cấp giấy phép lao động. Do đó, Hợp đồng lao động giữa bà NĐ_Ngân và BĐ_Công ty Tân Việt Á (Việt Nam) chưa được ký kết theo qui định của pháp luật. Bà NĐ_Ngân xác nhận từ ngày 24/5/2010 bà đã không đến Công ty làm việc, bà đã nhận lương của Công ty thanh toán đến hết ngày 31/5/2010. Như vậy, công ty đã trả lương cho bà NĐ_Ngân đầy đủ theo qui định. Bà NĐ_Ngân yêu cầu công ty phải giải quyết cho bà lương trong thời gian bà không được làm việc và bồi thường 02 tháng lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Tổng cộng là 167.339.250 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Yêu cầu của bà NĐ_Ngân là không có cơ sở nên không được chấp nhận.

Như đã phân tích nêu trên, đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày không có cơ sở nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

3. Về án phí

Bà NĐ_Ngân được miễn án phí theo qui định tại Điều 11 Pháp lệnh án phí , lệ phí Tòa án đối với yêu cầu của bà NĐ_Ngân không được Tòa án chấp nhận.

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 31; điểm c khoản 1 Điều 33; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 36; khoản 1 Điều 245 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ Điều 7 Nghị định 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về hợp đồng lao động;

Căn cứ khoản 1 Điều 2; khoản 2 Điều 4; điểm b, c và d khoản 4 Điều 4 Nghị định 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 qui định về tyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam;

Căn cứ điều 11; khoản 3 điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và Khoản 4 Mục I của Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án).

1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn

Không chấp nhận yêu cầu của bà NĐ_Bùi Trung Ngân đòi BĐ_Công ty Tân Việt Á (Việt Nam) phải thanh toán cho bà NĐ_Ngân tiền 167.339.250 đồng.

2. Về án phí:

Bà NĐ_Ngân được miễn án phí. 3. Quyền kháng cáo

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tên bản án

Bản án Số: 05/2011/LĐ-ST Ngày: 23/8/2011 Về vụ án: Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án