TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X THÀNH PHỐ HCM

Số: 245/2013/KDTM-ST

Ngày: 11/01/2013

Về vụ án: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

----------------

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X - THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Bà Nguyễn Thị Tình T - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:    

 2. Ông Vĩnh L - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Đặng Thị Ngọc  - Hội thẩm nhân dân

Ông Lê Anh H – Cán bộ Tòa án nhân dân Quận X, Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận X, Tp. HCM tham gia phiên tòa: Bà Đỗ Thị Thu – Kiểm sát viên.

Ngày 11 tháng 01 năm 2013, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân Quận X, thành phố HCM, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 36/2010/TLST-KDTM ngày 19 tháng 8 năm 2010  về tranh  chấp  hợp  đồng  dịch vụ  theo  Quyết  định  đưa vụ  án  ra  xét xử sơ  thẩm  số 153/2012/QĐ-XX ngày 24 tháng 12 năm 2012, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh.

Địa chỉ: 910 Chung cư Thái An 2, đường NVQ, Phường ĐHT, Quận Y, Tp. HCM.

Có ông Nguyễn Văn Liêm  – Giám đốc đại diện. (Có mặt).

BỊ ĐƠN:

BĐ_Công ty TNHH đầu tư xây dựng Anh Khang.

Địa chỉ cũ: 212 PT, Phường 6, Quận X, Tp. HCM.

Địa chỉ mới: 129 PT, Phường 6, Quận X, Tp. HCM.

Có ông Nguyễn Văn Cảnh - Đại diện theo ủy quyền ngày 06/9/2010. (Có mặt).

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

1/- Ông LQ_Đặng Văn Hoa   sinh 1962

Địa chỉ: 10 PKB, phường ĐK, Quận Z, Tp. HCM. (Vắng mặt).

2/- LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh   .

Địa chỉ: 56/1 Khu phố 3, phường TCH, Quận T, Tp. HCM. Có ông Ngô Đình Thới –Giám đốc đại diện. (Vắng mặt).

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện và bản tự khai cùng các chứng từ kèm theo nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh (sau đây gọi tắt là nguyên đơn) có ông Nguyễn Văn Liêm  đại diện trình bày:

Ngày 01/7/2008 nguyên đơn và BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang (sau đây gọi tắt là bị đơn) có ký hợp đồng số 01/HĐTV.08 về việc tư vấn thẩm tra hồ sơ dự toán, quyết toán Công trình Long Hải Beach Resort tại TT Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do bị đơn làm chủ đầu    tư.

Theo Điều 3 của hợp đồng thì thời gian thực hiện được chia làm 02 giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Thời hạn dự kiến là 28 ngày ngay sau khi ký hợp đồng. Thời hạn hoàn thành thực tế phụ thuộc vào chất lượng hồ sơ do bên A cung cấp.

- Giai đoạn 2: 28 ngày kể từ ngày kết thúc giai đoạn 1.

Giá trị tạm tính ban đầu    là 52.240.000 đồng. Giá trị quyết toán hợp đồng được xác định theo tỷ lệ % so với tổng giá thành xây lắp lấy theo nội dung báo cáo kết quả thẩm tra quyết toán được chủ đầu    tư chấp nhận.

Vào ngày 15/8/2008 nguyên đơn đã giao cho bị đơn 03 báo cáo kết quả thẩm tra hồ sơ quyết toán của 03 hạng mục, có biên bản giao nhận giữa 02 công ty, đó là :

-           Hạng mục nhà nghỉ 02 tầng.

-           Hạng mục nhà thể dục thể thao và massage.

-           Hạng mục nhà nghỉ 04 phòng x 15 căn.

Sau khi nguyên đơn hoàn thành báo cáo của 03 hạng mục công trình trên thì giữa hai bên thoả thuận không làm nữa nên vào ngày 30/9/2008 nguyên đơn và bị đơn đã tiến hành ký biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tư vấn thẩm tra hồ sơ quyết toán số 28/BBTL.SG-08.

Theo biên bản nghiệm thu trên thì giá trị công việc đã hoàn thành là 93.216.000 đồng và bị đơn có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn không quá 05 ngày sau khi ký kết biên bản nghiệm thu thanh lý hợp đồng này.

Nguyên đơn đã nhiều lần gửi công văn yêu cầu bị đơn thanh toán nợ, tuy nhiên cho đến nay bị đơn vẫn chưa thanh toán nợ cho nguyên đơn.

Nay nguyên đơn yêu cầu khởi kiện bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền là 93.216.000 đồng (Chín mươi ba triệu hai trăm mười sáu ngàn đồng) và tiền lãi trên số tiền chậm thanh toán tính theo lãi suất là 1.17%/tháng (14%/năm) từ ngày 06/10/2008 đến ngày Tòa án xét xử, tạm tính đến ngày 06/11/2012 là 49 tháng số tiền là 53.441.000 đồng. Thực hiện ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Tại bản tự khai cùng các cùng các chứng từ kèm theo, bị đơn BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang (sau đây gọi tắt là bị đơn) có ông Nguyễn Văn Cảnh đại diện trình bày. Vào năm 2006 bị đơn và ông Nguyễn Văn Liêm  (hiện là Giám đốc của NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh) thoả thuận ký hợp đồng tư vấn thẩm tra hồ sơ dự toán, quyết toán công trình Long Hải Beach Resort, tuy nhiên do thời điểm đó ông Liêm chưa thành lập Công ty vì vậy ông Liêm mượn pháp nhân của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh để ký hợp đồng với bị đơn nên vào ngày 22/02/2006 bị đơn và LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh (sau đây gọi tắt là LQ_Công ty Kim Oanh ) đã ký hợp đồng số 01/HĐTV-06 về việc thẩm tra hồ sơ quyết toán các hạng mục của công trình Long Hải Beach Resort do bị đơn làm chủ đầu    tư.

Ngày 29/01/2007 LQ_Công ty Kim Oanh đã giao cho bị đơn báo cáo kết quả thẩm tra hồ sơ quyết toán số BC-03/01TV-06 về việc thẩm tra quyết tóan hạng mục “nhà nghỉ 2 tầng” và ông Nguyễn Văn Liêm  đã ký nhận số tiền tạm ứng của bị đơn là 33.000.000 đồng dưới danh nghĩa là nhân viên của LQ_Công ty Kim Oanh .

Đến năm 2008, ông Nguyễn Văn Liêm  thành lập NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh, ông Liêm và bị đơn thoả thuận trực tiếp ký lại hợp đồng nên vào ngày 01/7/2008 hai bên ký hợp đồng số 01/HĐTV-08 về việc thẩm tra hồ sơ quyết toán các hạng mục của công trình Long Hải Beach Resort tại TT Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do bị đơn làm chủ đầu    tư. Thực chất cả 02 hợp đồng trên đều do một người chủ trì thực hiện là ông Nguyễn Văn Liêm .

Quá trình thực hiện hợp đồng thì nguyên đơn giao cho bị đơn được 02 báo cáo đối với hạng mục “Nhà thể dục thể thao và massage” và hạng mục “Nhà nghỉ 4 phòng x 15 căn”, đối với hạng mục “nhà nghỉ 2 tầng” thì nguyên đơn không làm vì LQ_Công ty Kim Oanh đã ra báo cáo rồi.

Vào ngày 30/9/2008 giữa nguyên đơn và bị đơn có ký biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tư vấn thẩm tra hồ sơ quyết toán số 28/BBTL.SG-08 với giá trị công việc đã hoàn thành là 93.216.000 đồng trong đó vẫn tính giá trị công việc thẩm tra quyết tóan của hạng mục “nhà  nghỉ  2 tầng”  mà  thực  chất  nguyên  đơn  không  làm  và  cũng  không  trừ  đi  số  tiền  là 33.000.000 đồng mà bị đơn đã tạm ứng cho nguyên đơn dưới danh nghĩa là LQ_Công ty KimOanh.

Mặt khác, hồ sơ thẩm tra quyết toán của bị đơn không đáp ứng được yêu cầu đề ra trong hợp đồng, cụ thể là các báo cáo kết quả thẩm tra quyết toán đều không nêu ra được chi tiết khối lượng quyết toán của các hạng mục đã thẩm tra theo như quy định tại Điều 3 của các Hợp đồng tư vấn, thực chất của các báo cáo kết quả thẩm tra quyết toán chỉ là văn bản đưa ra số liệu tổng giá trị quyết toán của các hạng mục công trình, còn tại sao, chi tiết tính toán như thế nào để ra được kết quả thì không có và tại công văn số 16/09/CV ngày 22/8/2009 thì nguyên đơn cho rằng: “Nhà thầu SNC đã hỗ trợ NĐ_Công ty Hoàng Anh (tư vấn) để hòan thành các bảng tính giá trị quyết toán, nên hồ sơ quyết toán sau cùng do nhà thầu SNC chế tác và nộp Quý công ty chính là kết quả thẩm tra chi tiết khối lượng quyết toán các hạng mục đã thẩm tra do NĐ_Công ty Hoàng Anh thực hiện”. Điều này hết sức vô lý vì bị đơn thuê nguyên đơn thẩm tra quyết toán để xác định đúng đắn giá trị xây dựng Công trình để bị đơn thanh toán cho đơn vị thi công là Công ty SNC mà nguyên đơn lại cho rằng hồ sơ quyết toán do Công ty SNC chế tác chính là kết quả thẩm tra chi tiết khối lượng.

Từ những cơ sở trên bị đơn không chấp nhận biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tư vấn thẩm tra hồ sơ quyết toán số 28/BBTL.SG-08 ngày 30/9/2008 ký giữa BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang (do ông LQ_Đặng Văn Hoa đại diện ký) và NĐ_Công tyTNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh (do ông Nguyễn Văn Liêm  đại diện ký). Do đó bị đơn không đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền là 93.216.000 đồng (Chín mươi ba triệu hai trăm mười sáu ngàn đồng) và tiền lãi trên số tiền chậm thanh toán tính theo lãi suất là 1.17%/tháng (14%/năm) từ ngày 06/10/2008 đến ngày Tòa xét xử.

LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh (sau đây gọi tắt là LQ_Công ty Kim Oanh ) có ông Ngô Đình Thới đại diện trình bày:

Ngày 22/02/2006 LQ_Công ty Kim Oanh có ký hợp đồng tư vấn số 01/HĐTV.06 với BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang (sau đây gọi tắt là bị đơn) về thẩm tra hồ sơ quyết toán công trình Long Hải Beach Resort. Trong quá trình thực hiện hợp đồng thì LQ_Công ty Kim Oanh đã tạm ứng của bị đơn số tiền là 33.000.000 đồng có ký nhận của nhân viên Công ty là ông Nguyễn Văn Liêm . LQ_Công ty Kim Oanh đã giao cho bị đơn báo cáo kết quả thẩm tra hồ sơ quyết tóan hạng mục nhà nghỉ 02 tầng. Sau đó giữa LQ_Công ty Kim Oanh và bị đơn thoả thuận không tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa, tuy nhiên giữa hai Công ty không làm thủ tục thanh lý hợp đồng. Số tiền 33.000.000 đồng mà LQ_Công ty Kim Oanh tạm ứng của bị đơn là quan hệ giữa LQ_Công ty Kim Oanh và bị đơn không liên quan gì đến nguyên đơn là NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh. Vì vậy việc nguyên đơn và bị đơn ký hợp đồng tư vấn với nhau hay việc nguyên đơn có làm báo cáo kết quả thẩm tra hồ sơ quyết tóan hạng mục “nhà nghỉ 02 tầng” hay không LQ_Công ty Kim Oanh không biết vì không liên quan đến LQ_Công ty Kim Oanh .

Tại bản tự khai ngày 13/10/2010 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông LQ_Đặng Văn Hoa trình bày: Vào thời điểm 2006 ông với chức vụ là Tổng Giám đốc của BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang (sau đây gọi tắt là bị đơn) có liên hệ với ông Nguyễn Văn Liêm  để tham gia thẩm tra hồ sơ quyết toán công trình Long Hải Beach Resort do bị đơn làm chủ đầu    tư. Tuy nhiên do thời điểm đó ông Liêm chưa thành lập Công ty vì vậy ông Liêm mượn pháp nhân của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh để ký hợp đồng với bị đơn nên vào ngày 22/02/2006 bị đơn và LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh (sau đây gọi tắt là LQ_Công ty Kim Oanh ) đã ký hợp đồng số 01/HĐTV-06 về việc thẩm tra hồ sơ quyết toán các hạng mục của công trình Long Hải Beach Resort do bị đơn làm chủ đầu    tư.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng thì LQ_Công ty Kim Oanh đã tạm ứng của bị đơn số tiền là 33.000.000 đồng. Đến khoảng năm 2008 ông Liêm có đề nghị được thay đổi pháp nhân khác là NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh để ký hợp đồng lại với bị đơn nên vào ngày 01/7/2008 bị đơn và NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh đã ký hợp đồng số 01/HĐTV-08 về việc thẩm tra hồ sơ quyết toán các hạng mục của công trình Long Hải Beach Resort tại TT Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do Công ty SNC thi công. Thực chất cả 02 hợp đồng đều do một người chủ trì thực hiện là ông Nguyễn Văn Liêm .

Vào ngày 30/9/2008, NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh và BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang do ông là Tổng Giám đốc đã ký kết biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tư vấn số 28/BBTL-SG-08 về việc thẩm tra hồ sơ quyết toán Công trình Long Hải Beach Resort. Theo biên bản nghiệm thu này thì BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang phải thanh toán cho NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh số tiền là 93.216.000 đồng (Chín mươi ba triệu, hai trăm mười sáu ngàn đồng)

trong vòng 05 ngày kể từ thời điểm ký biên bản.

Đầu    năm 2009, thì ông nghỉ việc nên việc thanh toán tiền là quan hệ giữa NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh và BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang, không liên quan đến ông. Tuy nhiên theo ông thì với vai trò và chức năng là nhà tư vấn NĐ_Công ty Hoàng Anh còn có những sai sót nhất định trong việc thu thập hồ sơ tài liệu, thiếu sự phối hợp đồng bộ với các bộ phận nghiệp vụ liên quan phục vụ quyết toán, thiếu sự kiểm tra báo cáo của các bên liên quan, đơn vị tư vấn không đáp ứng được yêu cầu với vai trò tư vấn giúp chủ đầu    tư trong quá trình giải quyết công việc dẫn đến sai lệch về giá vật liệu, đơn giá thanh toán làm sai lệch giá trị công trình có thể gây thiệt hại cho chủ đầu    tư. Vì thế giữa hai bên nên có kiểm tra và xác định lại giá trị quyết toán công trình đã thẩm tra trước đây để đảm bảo tính khách quan.

Tại phiên tòa hôm nay: Nguyên đơn cho rằng nguyên đơn không phải là một đơn vị kiểm toán, những báo cáo mà nguyên đơn thực hiện là một sản phẩm tư vấn, không có giá trị pháp lý như là một kết quả bắt buộc bị đơn phải thực thi. Do đó bị đơn có quyền lựa chọn nhiều đơn vị làm nhiệm vụ tư vấn cho cùng một công việc mà chủ đầu    tư quan tâm. Kết quả tư vấn của các đơn vị đều chỉ dùng để chủ đầu    tư tham khảo.

Mặt khác, việc LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh và bị đơn ký hợp đồng tư vấn số 01/HĐTV.06 ngày 22/02/2006 không liên quan đến NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh, vào thời điểm năm 2006 ông là nhân viên của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh , ông ký nhận tiền với tư cách là nhân viên của Công ty không phải tư cách là cá nhân. Vì vậy bị đơn cho rằng năm 2006 ông mượn tư cách pháp nhân của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh là không có cơ sở.

Bị đơn trình bày: Việc năm 2006 ông Nguyễn Văn Liêm  mượn tư cách pháp nhân của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh và năm 2008 bị đơn và ông Nguyễn Văn Liêm  thỏa thuận ký lại hợp đồng với tư cách là NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh thì giữa hai bên chi thỏa thuận miệng và không thể hiện bằng văn bản.

Bị đơn xác nhận nguyên đơn có giao cho bị đơn 03 báo cáo kết quả thẩm tra hồ sơ quyết toán của 03 hạng mục đó là hạng mục nhà nghỉ 02 tầng, hạng mục nhà thể dục thể thao và massage và hạng mục nhà nghỉ 04 phòng x 15 căn. Tuy nhiên đối với hạng mục nhà nghỉ 02 tầng thì thực chất nguyên đơn không làm mà sao chép lại báo cáo của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh , cơ sở chứng minh đó là 02 hồ sơ báo cáo kết quả thẩm tra hồ sơ quyết toán của hạng mục nhà nghỉ 02 tầng của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh và NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh giống nhau không sai một chữ, chỉ khác là tên Công ty thực hiện mà thôi. Mặt khác do các báo cáo hồ sơ tư vấn thẩm tra quyết tóan của NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh thực hiện thì những số liệu và giá thành vật tư trong các báo cáo đều không chính xác, thể hiện rõ ở chứng thư giám định số SG005/12/EXIMA-GĐ ngày 20/7/2012 do công ty cổ phần thẩm định giá E XIM thực hiện nên bị đơn không chấp nhận với các yêu cầu của nguyên đơn.

Về chi phí kiểm định số tiền là 99.000.000 đồng mà bị đơn đã đóng cho Công ty cổ phần thẩm định giá E XIM thì bị đơn không yêu cầu nguyên đơn phải thanh toán, không yêu cầu giải quyết đối với số tiền này.

- Đại diện VKSND Quận X nhận định Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng theo đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2011.

XÉT THẤY:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1/- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án

Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng dịch vụ với bị đơn, bị đơn có trụ sở đặt tại số 129 PT, Phường 6, Quận X, thành phố HCM. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 29, điểm b khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2011 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận X, TP. HCM.

Xét vụ kiện vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 319 Luật Thương Mại.

Xét người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông LQ_Đặng Văn Hoa và LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1Điều 202 của Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông LQ_Đặng Văn Hoa và LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh .

2/- Về các yêu cầu của các đương sự:

Về yêu cầu của nguyên đơn:

Căn cứ vào hợp đồng tư vấn số 01/HĐTV.08 ngày 01/7/2008 và lời khai thống nhất của hai bên đương sự thì nguyên đơn và bị đơn có ký hợp đồng về việc tư vấn thẩm tra hồ sơ dự toán, quyết toán Công trình Long Hải Beach Resort tại TT Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do bị đơn làm chủ đầu    tư.

Căn cứ vào biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tư vấn thẩm tra hồ sơ quyết toán số 28/BBTL.SG-08 ngày 30/09/2008 giữa nguyên đơn và bị đơn thể hiện sản phẩm hoàn thành của nguyên đơn đã bàn giao cho bị đơn gồm có 03 báo cáo của 03 hạng mục công trình là hạng mục nhà nghỉ 02 tầng, hạng mục nhà thể dục thể thao và massage, hạng mục nhà nghỉ 04 phòng x 15 căn. Giá trị công việc mà nguyên đơn đã hoàn thành là 93.216.000 đồng và bị đơn có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn số tiền trên không quá 05 ngày sau khi ký kết biên bản nghiệm thu thanh lý hợp đồng này. Như vậy cho đến nay đã quá thời hạn thanh toán nhưng bị đơn không thanh toán.

Căn cứ khoản 1 điều 85 Bộ Luật Thương mai qui định bị đơn có nghĩa vụ thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng cho nguyên đơn. Vì vậy, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền còn nợ là 93.216.000 đồng là phù hợp với hợp đồng các bên đã ký kết và phù hợp với điều luật đã được viện dẫn ở trên.

Về yêu cầu bị đơn phải chịu tiền lãi trên số tiền chậm thanh toán tính theo lãi suất là

1.17%/tháng (14%/năm) từ ngày 06/10/2008 đến ngày Toà xét xử là ngày 11/01/2013. Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào Điều 306 của Luật thương mại năm 2005 thì do bị đơn chậm thanh toán nên phải trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả. Căn cứ vào công văn số 033/CV-TCB ngày 08/01/2013 của Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Thắng Lợi thì lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp là 16%/năm, Công văn số 29/CV-CN3 ngày 08/01/2013 của Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam,  chi nhánh 3  thì lãi suất cho vay đối  với doanh nghiệp là 13.5%/năm; Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh 3 thì lãi suất cho vay là 13.5 %/năm (mức tối thiểu). Căn cứ vào biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tư vấn thẩm tra hồ sơ quyết toán số 28/BBTL.SG-08 ngày 30/9/2008 thì thời hạn cuối cùng bị đơn phải có trách nhiệm thanh toán tiền cho nguyên đơn là ngày 06/10/2008 nhưng bị đơn không thanh toán. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả tiền lãi do chậm thanh toán với lãi suất 1.17 %/tháng từ ngày 06/10/2008 đến ngày 11/01/2013 là 55.803.758 đồng (93.216.000 đồng x 1.17% x 51 tháng 05 ngày = 55.803.758 đồng) là phù hợp nên chấp nhận.

Vì vậy, yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền còn thiếu là 93.216.000 đồng và tiền lãi đối với số tiền nêu trên tính từ ngày 06/10/2008 đến ngày Tòa án xét xử là ngày 11/01/2013 với lãi suất 1.17%/tháng số tiền 55.803.758 đồng. Tổng cộng là 149.019.758 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở nên chấp nhận.

Về yêu cầu của bị đơn:

Bị đơn xác nhận vào ngày 01/7/2008 nguyên đơn và bị đơn có ký hợp đồng số 01/HĐTV-08 về việc tư vấn thẩm tra hồ sơ quyết toán các hạng mục của công trình Long Hải Beach Resort tại TT Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu do bị đơn làm chủ đầu    tư và vào ngày 30/9/2008 hai bên có ký biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tư vấn thẩm tra hồ sơ quyết toán số 28/BBTL.SG-08 với giá trị công việc đã hoàn thành là 93.216.000 đồng gồm có 03 hạng mục công trình là hạng mục nhà nghỉ 02 tầng, hạng mục nhà thể dục thể thao và massage, hạng mục nhà nghỉ 04 phòng x 15 căn.

Lý do bị đơn không đồng ý thanh toán cho nguyên đơn là vì trong 03 báo cáo hồ sơ tư vấn thẩm tra quyết toán giao cho bị đơn thì đối với hạng mục nhà nghỉ 02 tầng thực chất nguyên đơn không làm mà chỉ sao chép lại của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh và nguyên đơn đã tạm ứng số tiền là 33.000.000 đồng dưới danh nghĩa là LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh , tuy nhiên trong biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tư vấn thẩm tra hồ sơ quyết toán số 28/BBTL.SG-08 ngày 30/9/2008 nguyên đơn vẫn tính giá trị công việc thẩm tra quyết tóan của hạng mục “nhà nghỉ 2 tầng”.

Mặt khác hồ sơ tư vấn thẩm tra quyết tóan của nguyên đơn không đúng với quy định trong hợp đồng tại Điều 1 khoản 1.3 và Điều 3 khoản 3.2 của hợp đồng cụ thể là nguyên đơn không có báo cáo chi tiết khối lượng, đơn giá của các hạng mục đã thẩm tra.

Xét yêu cầu của bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy : Việc bị đơn và LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh ký hợp đồng số 01/HĐTV-06 ngày 22/02/2006 là quan hệ của 02 pháp nhân hoàn toàn độc lập, không phải là ký giữa bị đơn và cá nhân ông Nguyễn Văn Liêm . Việc ông Liêm ký nhận số tiền tạm ứng là 33.000.000 đồng với tư cách là nhân viên của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh . Ngoài ra, bị đơn cũng không có chứng cứ chứng minh nào thể hiện ông Nguyễn Văn Liêm  mượn pháp nhân để ký hợp đồng và đối với báo cáo kết quả thẩm tra hồ sơ quyết toán hạng mục nhà nghỉ 02 tầng nguyên đơn không làm mà sao chép lại của LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh .

Mặt khác, tại biên bản nghiệm thu số 28/BBTL.SG-08 ngày 30/9/2008 có ghi rõ sản phẩm hoàn thành của bên B đã bàn giao cho bên A gồm có 03 hạng mục công trình đó là hạng mục nhà nghỉ 02 tầng, hạng mục nhà thể dục thể thao và massage, hạng mục nhà nghỉ 04 phòng x 15 căn (mục 5). Về đánh giá chung chất lượng là đạt yêu cầu (mục 7) và “Tổng số tiền bên B đã được chi trả (tính đến ngày 30/9/2008) là chưa tạm ứng lần nào (mục 9). Vì vậy, việc bị đơn không đồng ý thanh toán tiền cho nguyên đơn là không có cơ sở để chấp nhận.

Đối với số tiền chi phí kiểm định là 99.000.000 đồng do bị đơn không yêu cầu nguyên đơn phải thanh toán và không yêu cầu giải quyết đối với số tiền này nên hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 27 của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, thì bị đơn phải nộp án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm đối với toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận là 7.450.987 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Áp dụng khoản 1 Điều 85; Điều 306; Điều 319 của Luật thương mại năm 2005;

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 29; điểm b khoản 1 Điều 33; điểm b khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 131; khoản 1 Điều 202; khoản 1 Điều 245 của Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2011.

Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Áp dụng khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và Khoản 3 Mục I của Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án).

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh.

Buộc BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang phải thanh toán cho NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh số tiền là 93.216.000 đồng (chín mươi ba triệu, hai trăm mười sáu ngàn đồng) và tiền lãi tính từ ngày 06/10/2008 đến ngày 11/01/2013 số tiền là 55.803.758 đồng (năm mươi lăm triệu, tám trăm lẻ ba ngàn, bảy trăm năm mươi tám đồng). Tổng cộng là 149.019.758 đồng (Một trăm bốn mươi chín triệu, không trăm mười chín ngàn, bảy trăm năm mươi tám đồng).

Thực hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm:

- BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang phải nộp án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm là 7.450.987 đồng (bảy triệu, bốn trăm năm mươi ngàn, chín trăm tám mươi bảy đồng).

- Hoàn trả lại cho NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.330.400 đồng (hai triệu, ba trăm ba mươi ngàn, bốn trăm đồng) theo biên lai thu tiền số 017880 ngày 19/8/2010 của Chi cục thi hành án dân sự Quận X.

3. Kể từ ngày NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh có đơn yêu cầu thi hành án nếu BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang không thanh toán cho NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh số tiền nêu trên thì hàng tháng BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang còn phải trả cho NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. NĐ_Công ty TNHH tư vấn kỹ thuật tin học xây dựng Hoàng Anh và BĐ_Công ty TNHH đầu    tư xây dựng Anh Khang có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông LQ_Đặng Văn Hoa và LQ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Kim Oanh có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn

15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

 

 

 

Tên bản án

Bản án sô 245/2013/KDTM-ST Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English