TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

----------------------

Quyết định giám đốc thẩm

Số: 248/2009/KDTM-GĐT

Ngày: 15/7/2009

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-----------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

 

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có mười hai (12) thành viên tham gia xét xử,

Do ông Trương Hoà H - Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm Chủ tọa phiên toà;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên toà: ông Nguyễn Bá H - Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: ông Mai Anh L - Thẩm tra viên Ban Thư ký Toà án nhân dân tối cao.

Ngày 15/7/2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ”, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh;

Có địa chỉ tại 152-154 THĐ, quận NK, thành phố CT;

Do ông Nguyễn Văn Nhơn làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 12/05/2006 của Giám đốc Công ty;

Bị đơn:

Ông BĐ_Đoàn Bá Minh- Chủ cơ sở Minh Tiến;

Có địa chỉ tại BI 1/1 ố ấp 2 - xã BC, huyện BC;

Do ông LQ_Nguyễn Văn Ninh làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 17/5/2006 của ông

BĐ_Minh;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông LQ_Nguyễn Văn Ninh,

Địa chỉ: 718 B D20 HV, phường X, quận Y, thành phố HCM;

2. Bà LQ_Lê Thị Liên,

Địa chỉ: khu phố 2, thị trấn BL, LA.

Bà LQ_Liên ủy quyền cho ông LQ_Nguyễn Văn Ninh theo Giấy ủy quyền ngày 18/5/2006.

 

NHẬN THẤY:

Theo đơn khởi kiện (không đề ngày), lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình thì thấy:

Ngày 01/8/1998, NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh (sau đây gọi tắt là NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh) - Bên A ký với ông LQ_Nguyễn Văn Ninh (với tư cách Chủ cơ sở Minh Tiến) Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH 98 với nội dung chính (tóm tắt) như sau: Bên A có trách nhiệm:

“...Chuẩn bị mặt bằng để chế biến nấm rơm muối xuất khẩu; ký hợp đồng xuất khẩu; tổ chức bộ máy quản lý...; tổ chức giao nhận xuất hàng tại cảng; vay hộ vốn lưu động để thanh toán theo tiến độ mua nấm rơm nguyên liệu mỗi ngày trên cơ sở hợp đồng xuất khẩu đã ký. Khi bắt đầu sản xuất, bên A có thể ứng trước tiền hàng tương đương với giá trị 02 Container hàng để bên B mua nguyên liệu (mua dự trữ ban đầu) chờ ký hợp đồng xuất..”

Bên B (Cơ sở Minh Tiến) có trách nhiệm:

“...Tổ chức thu mua nguyên liệu, chịu trách nhiệm về giá mua, chất lượng nguyên liệu hao hụt gia công và chất lượng, số lượng hàng thành phẩm xuất khẩu, tự bỏ vốn đầu tư trang thiết bị để phục vụ cho chế biến nấm rơm muối xuất khẩu; chịu trách nhiệm tìm khách hàng nước ngoài mua hàng, đàm phán giá xuất khẩu để bên A trực tiếp ký Hợp đồng xuất khẩu và nếu chất lượng hàng xuất khẩu không đạt yêu cầu bị khách hàng giảm giá hoặc trả lại hàng thì bên B phải hoàn trả lại cho bên A về tiền hàng và toàn bộ chi phí phát sinh của lô hàng này; trường hợp hàng đã sản xuất xong, lưu kho tối đa 90 ngày mà không có khách hàng mua thì bên B phải hoàn trả lại cho bên A toàn bộ tiền hàng và tất cả chi phí phát sinh có liên quan..trong trường hợp bên B không có khả năng tiêu thụ được hàng đã sản xuất hoặc kinh doanh không có hiệu quả phải chấm dứt hợp đồng thì bên B phải thanh toán toàn bộ tiền vốn cho bên A trong thời hạn 30 ngày...; thời hạn hợp đồng là 3 năm kể từ ngày 01/8/1998 đến 01/8/2001...”.

Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn không thỏa thuận được, thì hai bên đồng ý đưa ra Tòa Kinh tế tỉnh (nay là thành phố) CT giải quyết.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh vay vốn ứng trước cho ông LQ_Ninh để ông LQ_Ninh tiến hành công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng do phía ông LQ_Ninh bán hàng tiền thu vào không cân đối nên dẫn đến còn nợ NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh. Đến ngày 31/3/2002, NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh và ông LQ_Ninh có Biên bản đối chiếu công nợ số 02/BB 2002 với số tiền ông LQ_Ninh nợ là: 1.244.833.843 đồng.

NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh nhiều lần gửi công văn yêu cầu ông LQ_Ninh thanh toán tiền nợ cho Công ty nhưng ông LQ_Ninh không đến. Nay NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh yêu cầu ông LQ_Ninh phải có trách nhiệm trả cho Công ty số tiền nợ gốc là 1.244.833.843 đồng cộng với lãi phát sinh từ số tiền trên tính từ tháng 4/2002 với lãi suất là 0,85%/tháng.

Theo lời trình bày của ông LQ_Nguyễn Văn Ninh - đại diện bị đơn thì: Ông BĐ_Nguyễn

Hữu Minh là dượng của ông LQ_Ninh đứng ra xin giấy phép kinh doanh mang tên Cơ sở Hoàng  Tiến nhưng thực chất ông LQ_Ninh là nguời quản lý cơ sở. Vì ông LQ_Ninh có tay nghề và có khách nước ngoài nên NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh mới hợp tác với ông LQ_Ninh với tư cách là nhân viên kỹ thuật của phân xưởng sản xuất chế biến nấm rơm muối xuất khẩu. NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh yêu cầu ông ký Hợp đồng hợp tác mua chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH98 ngày 01/8/1998 thì Công ty mới ứng vốn cho phân xưởng sản xuất chứ không phải ứng cho Cơ sở Minh Tiến. Anh Lý và anh Thương là người của NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh giao tiền cho ông để tiến hành thu mua sản xuất nấm rơm cho phân xưởng. Hàng xuất là do NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh quản lý, xuất hóa đơn; các hợp đồng mua bán với đối tác nước ngoài đều do NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh theo dõi thu tiền (BL 351).

Ngày 01/8/1998, NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh yêu cầu ông ký biên bản với số công nợ 1.403.593.843 đồng; các khoản kê ra đúng như thực tế nhưng là do lỗi của Công ty; nhưng vì vẫn muốn hợp tác để giải quyết vấn đề này nên ông đã ký vào biên bản để được Công ty tiếp tục ứng vốn. Biên bản đối chiếu công nợ số 02/BB 2002 ngày 31/3/2002 là do ông ký, số nợ đúng với thực tế nhưng không phải ông nợ Công ty mà là nợ của bên nước ngoài và hàng tồn, cộng với khoản lãi ngân hàng, thực chất hàng tháng NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh yêu cầu ông ký biên bản như vậy.

Sau khi thụ lý vụ án, ngày 11/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh (nay là thành phố) CT ra Quyết định số 04/QĐ- CVA chuyển vụ án đến Tòa án nhân dân thành phố HCM để giải quyết vì cho rằng vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố HCM (BL 127).

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/4/2004, NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh yêu cầu Tòa án nhân dân huyện BC, thành phố HCM buộc cá nhân ông LQ_Nguyễn Văn Ninh và vợ là bà LQ_Lê Thị Liên trả số tiền còn nợ 1.244.833,843 đồng (BL 347).

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2004, NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh yêu cầu buộc ông LQ_Ninh trả số tiền nợ gốc là 877.863.924 đồng và tiền lãi theo mức

0,85%/tháng kể từ tháng 4/2002 (BL 346).

Ngày 14/3/2005, Tòa án nhân dân huyện BC, thành phố HCM có Công văn số 46/CVTA chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân thành phố HCM giải quyết với lý do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty YUAN_JEN_SHINE CORP có trụ sở ở nước ngoài.

Ngày  21/7/2005,  Tòa  án  nhân  dân  huyện  BC,  thành  phố  HCM  có  Quyết  định  số 09/2005/DS-ST chuyển vụ án đến Tòa án nhân dân quận Y thành phố HCM giải quyết theo thẩm quyền với lý do bị đơn hiện đang cư trú tại 718b đường HV, phường 13, quận Y, thành phố HCM (BL. 373).

Ngày  28/12/2005,  Tòa  án  nhân  dân  quận  Y,  thành  phố  HCM  có  Quyết  định  số 03/2005/CVA.KDTM-ST chuyển vụ án đến Tòa án nhân dân thành phố HCM để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 30/12/2005, Tòa án nhân dân thành phố HCM thụ lý vụ án.

Ngày 15/3/2000, NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh có đơn khởi kiện Cơ sở Minh Tiến, do ông BĐ_Đoàn Bá Minhlàm Chủ cơ sở và người liên quan là ông LQ_Nguyễn Văn Ninh và bà LQ_Lê Thị Liên  với yêu cầu Tòa án xem xét  hủy Hợp đồng số 121/KH98 ngày 01/8/1998  và  xem  xét  trách  nhiệm  của  ông  LQ_Trần  Văn  Ninh  trong  việc  nhận  tiền  của NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh, buộc gia đình ông LQ_Ninh, bà LQ_Liên phải trả cho Công ty số tiền 1.244.833.843 đồng và tiền lãi theo lãi suất nợ quá hạn nêu trên kể từ tháng 4/2002 (BL538).

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 595/2006/KDTM-ST ngày 27/11/2006,

Tòa án nhân dân thành phố HCM quyết định:

"... Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn

Tuyên bố Hợp đồng hợp tác mua chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121ÌKH. 98 ngày

01/8/1998 giữa NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh và cơ sở Minh Tiến bị vô hiệu toàn bộ.

Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đòi nợ của NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh đối với ông LQ_Nguyễn Văn Ninh và bà LQ_Lê Thị Liên... ”

Ngày 07/12/2006, NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh có đơn kháng cáo toàn bộ bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KTPT ngày 07/6/2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM quyết định:

“...Bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đối với yêu cầu đòi nợ. Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh; Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự về yêu cầu đòi nợ của NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh đối với ôngLQ_Nguyễn Văn Ninh và bà LQ_Lê Thị Liên...” Ngày 28/8/2007, NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với cả hai bản án nêu trên.

Tại Quyết định số 07/2009/KDTM-KN-TKT ngày 31/3/2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KDTM-PT ngày 07/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 595/2006/KDTM-ST ngày 27/11/2006 của Tòa án nhân dân thành phố HCM và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KDTM-PT ngày 07/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố HCM xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại kết luận số 18/KL-VKSTC-V12 ngày 02/6/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hoàn toàn nhất trí với Quyết định kháng nghị số 07/2009/ KDTM-KN-TKT ngày 31/3/2009 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 595/2006/KDTM- ST ngày 27/11/2006 của Tòa án nhân dân thành phố HCM và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KDTM-PT ngày 07/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố HCM xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

 

XÉT THẤY:

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh cho rằng Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 giữa NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh và Cơ sở Minh Tiến là vô hiệu do ông LQ_Nguyễn Văn Ninh không có tư cách ký hợp đồng. Nội dung của hợp đồng là có, việc nhận tiền, thu mua nấm rơm do ông LQ_Ninh nhận, ông LQ_Ninh có biên bản xác nhận công nợ, do đó Công ty yêu cầu ông LQ_Ninh bà LQ_Liên có trách nhiệm trả lại tiền (BL587).

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì ngày 01/8/1998, ông LQ_Nguyễn Văn Ninh (với tư cách Chủ Cơ sở Minh Tiến) và NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh ký kết Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98, nhưng theo Giấy phép kinh doanh số 110/GP-UB ngày 09/7/1996 do Ủy ban nhân dân huyện BC, thành phố HCM cấp cho Cơ sở Minh Tiến, thì ông BĐ_Đoàn Bá Minhmới là chủ cơ sở này. Ông LQ_Nguyễn Văn Ninh không phải là chủ Cơ sở Minh Tiến nhưng lại ký kết hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu với NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh với tư cách là Chủ cơ sở Minh Tiến; trong khi ông BĐ_Minh khai ông chỉ đứng tên chủ cơ sở dùm cho ông LQ_Ninh, việc kinh doanh của ông LQ_Ninh ông BĐ_Minh hoàn toàn không biết. Còn ông LQ_Ninh cũng thừa nhận ông thực chất là người quản lý Cơ sở Minh Tiến.

Tại phiên toà sơ thẩm, ông LQ_Ninh cũng thừa nhận khi ký hợp đồng ông không được ông BĐ_Minh uỷ quyền; việc ông ký hợp đồng chỉ là hình thức để thành lập phân xưởng nấm rơm xuất khẩu; ông chỉ là người làm công trong phân xưởng sản xuất chế biến nấm rơm do Công ty nông sản Cán Thơ thành lập; việc đối chiếu công nợ là hoạt động bình thường của phân xưởng, ông ký đối chiếu công nợ với tư cách là nhân viên kỹ thuật của phân xưởng; NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh dựa vào các biên bản đối chiếu công nợ để buộc Ông thanh toán thực tế ông không được nhận, số tiền này là tiền lỗ, tiền hàng tồn, tiền nợ của khách hàng nước ngoài, tiền lãi suất ngân hàng... của phân xưởng... (BL586, 587).

Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ bản chất của việc thành lập và hoạt động của Cơ sở Minh Tiến; Tại sao ông BĐ_Minh lại giao Giấy phép kinh doanh cho ông LQ_Ninh? Ông BĐ_Đoàn Bá Minhcó biết việc ông LQ_Nguyễn Văn Ninh ký kết và thực hiện Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 không? Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm căn cứ Điểm e Khoản 1 Điều 168, Khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên bố Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 giữa ông LQ_Ninh với tư cách chủ Cơ sở Minh Tiến và NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh bị vô hiệu toàn bộ với lý do: “...ông LQ_Nguyễn Văn Ninh không có tư cách đại diện của ông BĐ_Đoàn Bá Minh- Chủ Cơ sở Minh Tiến để ký hợp đồng... Các biên bản gọi là đối chiếu công nợ giữa phân xưởng và Công ty là tài liệu về hạch toán nội bộ của Công ty, không có giá trị về nghĩa vụ pháp lý đối với Cơ sở Minh Tiến do ông BĐ_Đoàn Bá Minhlàm chủ, cũng như không có nghĩa vụ pháp lý đối với ông LQ_Nguyễn Văn Ninh với tư cách công dân độc lập. Đó là công nợ giữa phân xưởng với Công ty... nên Công ty không có quyền khởi kiện...” (nhận định của bản án sơ thẩm); hoặc “...số tiền nợ là 1.244.833.843 đồng mà NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh có đơn khởi kiện đòi ông LQ_Nguyễn Văn Ninh (Cơ sở Minh Tiến)...thực chất đây không phải số tiền mà Công ty...đã xuất chi tạm ứng cho người nhận là ông LQ_Nguyễn Văn Ninh, mà đây là số tiền thua lỗ của phân xưởng... Ông LQ_Nguyễn Văn Ninh chỉ là người có tay nghề, được phân xưởng... phân công phụ trách kỹ thuật...Còn các Biên bản đối chất công nợ... thực chất là tài liệu hạch toán nội bộ của Công ty..., không có nghĩa vụ pháp lý đối với ông LQ_Nguyễn Văn Ninh...Do là công nợ giữa phân xưởng... với Công ty...là hạch toán nội bộ Công ty nên Công ty không có quyền khởi kiện...” (nhận định của bản án phúc thẩm) là chưa đủ căn cứ vững chắc và không đúng pháp luật.

Trong hồ sơ vụ án có nhiều tài liệu (từ BL 21 đến BL 316) thể hiện việc ông LQ_Ninh với tư cách Chủ cơ sở Minh Tiến đã trực tiếp hoặc ký Giấy giới thiệu cho các ông Trần Hữu Sử và Nguyễn Văn Tính đến NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh nhận tiền tạm ứng mua nguyên liệu. Sau đó, đã nhiều lần xác nhận công nợ với tư cách là một bên của hợp đồng. Vì vậy, NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh có quyền khởi kiện Cơ sở Minh Tiến và ông LQ_Ninh theo hợp đồng. Dù hợp đồng có bị vô hiệu hay không thì cũng phải thanh lý, giải quyết hậu quả của việc thực hiện hợp đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 giữa NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh và Cơ sở Minh Tiến bị vô hiệu toàn bộ nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu mà đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu đòi nợ của NĐ_Công ty nông sản Mỹ Linh đối với ông LQ_Nguyễn Văn Ninh và bà LQ_Lê Thị Liên là không đúng pháp luật. Trong trường hợp có căn cứ để Tòa án tuyên bố Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 là vô hiệu thì cũng cần phải xem xét, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

Khi xét xử phúc thẩm, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố HCM đã không phát hiện ra sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm, mà vẫn quyết định: giữ nguyên bản án sơ thẩm về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đối với yêu cầu đòi nợ” và tuyên xử: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh; Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự về yêu cầu đòi nợ của NĐ_Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Mỹ Linh đối với ông LQ_Nguyễn Văn Ninh và bà LQ_Lê Thị Liên...” cũng là không đúng.

Bởi các lẽ trên; căn cứ vào Khoản 3 Điều 291; Khoản 3 Điều 297; Khoản 1, 2 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH:

Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 595/2006/KDTM-ST ngày 27/11/2006 của  Tòa  án  nhân  dân  thành  phố  HCM  và  Bản  án  kinh  doanh,  thương  mại  phúc  thẩm  số 52/2007/KDTM-PT ngày 07/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố HCM xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

 

 

 

Tên bản án

Bản án số 248/2009/KDTM-GĐT Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án