QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 249/2013/KDTM-GĐT

NGÀY 13-8-2013 CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Về vụ án “tranh chấp hợp đồng dịch vụ”

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 13 tháng 8 năm 2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:
Công ty trách nhiệm hữu hạn OE;

Địa chi: 5th FL. Kins Tower, 25-1, Jeongja-dong, Bundang-gu, Seongnam- city, Kyungki- province, Korea; do ông Kang Sang Mun - Giám đốc điều hành làm đại diện theo pháp luật và ông Huỳnh Trung Kiên; địa chỉ: số 79 Đào Duy Anh, phường 9, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh làm đại diện theo ủy quyền (theo Văn bản ủy quyền ngày 19/11/2010 của Giám đốc điều hành Công ty).

BỊ ĐƠN:
Công ty cổ phần phát triển Thiên Phú;

Địa chỉ: xã Thiên Phú, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; do ông Hong Bong Chui - Tổng Giám đốc làm đại diện theo pháp luật và ông Đặng Lương Giao làm đại diện theo ủy quyền (theo Văn bản ủy quyền ngày 16/2/2011 của Tổng Giám đốc Công ty).

NHẬN THẤY

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 19/11/2010 và trong quá trình tố tụng, đại diện nguyên đơn trình bày:

Ngày 15/6/2007, Công ty trách nhiệm hữu hạn OE (sau đây gọi tắt là Công ty Orange) và Công ty cổ phần phát triển Thiên Phú (sau đây gọi tắt là Công ty Thiên Phú) ký kết hợp đồng dịch vụ với các nội dung sau (tóm tắt nội dung có tranh chấp):

Công ty Thiên Phú chỉ định Công ty Orange làm nhà thầu cung cấp dịch vụ thiết kế cho Dự án đầu tư xây dựng công trình “Câu lạc bộ quốc gia và sân Golf Đôi Chim Câu” tại xã Thiên Phú, thị xã Thủ Dầu Một, tinh Bình Dương (Dự án do Công ty Thiên Phú làm chủ đầu tư); phạm vi công việc: căn cứ theo “Phạm vi công việc” đính kèm Hợp đồng bao gồm: Thiết kế cơ bản (gồm hạng mục thiết kế kế hoạch và thiết kế cơ bản) và Thiết kế thực hiện (gồm hạng mục công trình dân dụng, CD sân golf và kế hoạch thiết bị phụ trợ); thời hạn dịch vụ là 3 tháng sau ngày ký kết hợp đồng; phí dịch vụ là 400.000.000 KRW (tiền Won Hàn Quốc) chưa tính VAT và mọi khoản thuế phải đóng tại Việt Nam; về thanh toán: l)Thanh toán lần 1 là 120.000.000 KRW trong vòng 7 ngày sau khi ký kết hợp đồng, 2)Thanh toán lần 2 là 120.000.000 KRW trên cơ sở chấp nhận theo kế hoạch công việc, 3)Thanh toán lần 3 là 160.000.000 KRW trên cơ sở chấp nhận CD và bản vẽ chi tiết (Điều 4); về kiểm tra thành quả: l)Nội dung của hợp đồng được cho là thực hiện chỉ khi khách hàng đồng ý nội dung đó, 2) Khách hàng hoàn thành việc kiểm tra trong 10 ngày kể từ ngày nhận được sản phẩm dịch vụ từ bên thiết kế và phải thông báo kết quả kiểm tra. Trường hợp không có thông báo khác thì việc kiểm tra coi như là đã thông qua, 3) Để thực hiện công việc một cách trung thực, bên thiết kế thường xuyên báo quá trình thực hiện cho khách hàng. Khi có yêu cầu sửa đổi thì lập tức phải chấp hành, do đó trường hợp phải kéo dài thời gian hợp đồng theo lý do này thì khách hàng và bên thiết kế có thể điều chỉnh thông qua thỏa thuận giữa hai bên (Điều 12); về bàn giao và tiếp nhận sản phẩm dịch vụ: l) Nếu bên thiết kế hoàn thành công việc và thông báo cho khách hàng, khách hàng nhận được thông báo tiếp nhận mà không có lý do gì đặc biệt thì phải hoàn thành việc kiểm tra, 2) Khi kết quả kiểm tra không đạt thì ngay lập tức bên thiết kế phải tiến hành chỉnh sửa và yêu cầu kiểm tra lại (Điều 13); về chấm dứt hợp đồng của khách hàng: Khách hàng có thể chấm dứt hoặc hủy một phần hoặc toàn bộ hợp đồng nếu rơi vào một trong những hạng mục dưới đây: l)Trường hợp bên thiết kế không thực hiện công việc sau khi ký hợp đồng mà không có lý do chính đáng, 2) Trường hợp thừa nhận là hoàn toàn không có khả năng hoàn thành công việc trong thời gian quy định mà không liên quan gì đến trách nhiệm của khách hàng hoặc đến thời hạn hoàn thành mà không hoàn thành công việc, 3) Trường hợp thừa nhận là không thể đạt mục đích do bên thiết kế vi phạm điều kiện hợp đồng (Điều 14); về chấm dứt hoặc hủy hợp đồng theo việc thay đổi phạm vi công việc: l) Khi phát sinh lý do hợp pháp thì khách hàng có thể chấm dứt hoặc hủy hợp đồng, 2) Trong vòng 7 ngày kể từ thời điểm kết thúc hợp đồng căn cứ theo mục 1 Điều 16 của hợp đồng này, khách hàng phải chi trả số tiền tương ứng với phần công việc (Điều 16)...

Sau khi ký kết hợp đồng, Công ty Orange đã triển khai ngay các công việc theo hợp đồng và Công ty Thiên Phú cũng đã thực hiện việc thanh toán lần 1 và lần 2 với tổng số tiền là 240.000.000 KRW theo đúng cam kết.

Ngày 20/9/2007, Công ty Orange đã hoàn tất và bàn giao cho Công ty Thiên Phú CD và bộ bản vẽ chi tiết của Dự án theo đúng khối lượng và tiến độ công việc đã cam kết trong hợp đồng. Theo quy định tại Hợp đồng thì Công ty Thiên Phú có nghĩa vụ kiểm tra và thông báo kết quả kiểm tra sản phẩm do Công ty Orange thực hiện trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận bàn giao, tuy nhiên Công ty Orange đã không nhận được bất cứ phản hồi nào từ Công ty Thiên Phú liên quan đên CD và bộ bản vẽ chi tiết của Dự án do Công ty Orange thực hiện. Như vậy, Công ty Thiên Phú đã chấp nhận sản phẩm của Công ty Orange mà không có khiếu nại gì. Công ty Orange đã hoàn thành công việc theo hợp đồng và Công ty Thiên Phú cũng đã sử dụng bộ bản vẽ chi tiết của dự án do Công ty Orange thực hiện để xin Giấy phép xây dựng và tiến hành xây dựng trên thực tế.

Công ty Thiên Phú không tiếp tục thực hiện việc thanh toán lần 3 với giá trị 160.000.000 KRW (tương đương với 141.969 USD) theo cam kết, nên Công ty Orange khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng và buộc Công ty Thiên Phú thanh toán số tiền 141.969 USD cùng lãi suất chậm thanh toán tính từ ngày 30/9/2007 đến ngày 31/12/2010 là 141.969 USD x 39 tháng x 12%/12 tháng = 55.367 USD.

Đại diện bị đơn: Ngày 15/6/2007, Công ty Orange và Công ty Thiên Phú ký kết hợp đồng dịch vụ thiết kế như đại diện nguyên đơn trình bày. Tháng 9/2007, Công ty Orange trình bản thảo đầu tiên. Tuy nhiên, do bản thảo còn sơ sài nên tại cuộc họp qua mạng vào tháng 10/2007, Công ty Thiên Phú đã thông báo với Công ty Orange sự trì hoãn thi công xây dựng sân Golf do bản vẽ chưa hoàn thành. Đại diện của Công ty Orange là ông Kwon Dong Young - Kiến trúc sư đã đồng ý đệ trình tất cả các bản vẽ hoàn chỉnh vào cuối tháng 11/2007 và các bên đã đồng ý thi công xây dựng từ tháng 12/2007. Đến tháng 11/2007, Công ty Orange trình bản thảo thứ hai nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh. Do vậy, đầu tháng 12/2007, ông Han Suk Jung - Quản lý dự án của Công ty Thiên Phú và đại diện nhà thầu đã sang Hàn Quốc đề nghị Công ty Orange hoàn thành các bản vẽ. Trong chuyến công tác này, chính ông Chủ tịch Kang Sang Moon của Công ty Orange đã phản đối kiến trúc sư trưởng của Công ty Orange về hệ thống thoát nước dưới lòng đất và đến tháng 01/2008, Công ty Thiên Phú nhận được kế hoạch về hệ thống thoát nước dưới lòng đất nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh rõ ràng.

Công ty Thiên Phú khẳng định chưa nhận được các gói công việc hoàn chỉnh cũng như bản chi tiết phối cảnh cây xanh bao gồm cả phần chỉnh sửa cách bố trí khu vực bờ suối và các chi tiết được yêu cầu bổ sung khác từ Công ty Orange. Thậm chí bản phần mềm trên máy tính cũng chưa được chỉnh sửa; các bản vẽ của Công ty Orange trình hoàn toàn không xem xét đến yếu tố tự nhiên, thời tiết của Việt Nam mà lại sử dụng bản vẽ mang đặc trưng của Hàn Quốc, điều này Công ty Thiên Phú đã nhiều lần phản ánh nhưng Công ty Orange vẫn không thể hiện trong bản thiết kế.

Công ty Orange không bàn giao các bản vẽ thiết kế đúng theo yêu cầu nên Công ty Thiên Phú bị tổn thất do chậm triển khai thi công, phải thuê nhà thiết kế khác, phải bồi thường cho nhà thầu do chậm triển khai thi công...thiệt hại ước tính lên đến 1.800.000 USD, chưa kể việc Công ty chậm trễ trong việc khai trương và đưa vào kinh doanh. Vì vậy, Công ty Orange đã vi phạm Điều 13 của hợp đồng đã ký kết. Căn cứ theo Điều 14, Điều 10 của Hợp đồng thì Công ty Thiên Phú có quyền chấm dứt hợp đồng và Công ty Orange phải bồi thường thiệt hại cho Công ty Thiên Phú. Mặt khác, Công ty Orange không đủ năng lực chuyên môn để thực hiện công việc theo yêu cầu và không có giấy phép hành nghề thiết kế theo quy định của pháp luật Việt Nam, nên Công ty Thiên Phú đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Orange.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2011/KDTM-ST ngày 7/4/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

“l. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của OE Co.LTD.

- Chấm dứt hợp đồng dịch vụ giữa OE Co.LTD và Công ty cổ phần phát triển Thiên Phú ngày 15/6/2007.

- Buộc Công ty cổ phần phát triển Thiên Phú thanh toán số tiền 3.720.448.347 đồng cho OE Co.LTD.

Kể từ ngày OE Co.LTD có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty cổ phần phát triển Thiên Phú không thanh toán khoản tiền nêu trên, thì ngoài khoản phải thi hành án, Công ty cổ phần phát triển Thiên Phú còn phải chịu thêm tiền lãi suất theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm thi hành án tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí:

- Công ty cổ phần phát triển Thiên Phú phải nộp 106.408.966 đồng.

-  OE Co. LTD phải nộp 18.348.611 đồng.

Ngày 19/4/2011, Công ty Thiên Phú có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đề nghị xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 127/2011/KDTM-PT ngày 12/8/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty Thiên Phú có đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 07/VKSNDTC-V12 ngày 24/2/2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 127/2011/KDTM-PT ngày 12/8/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2011/KDTM- ST ngày 7/4/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Công ty Orange (là doanh nghiệp được thành lập năm 2005 theo pháp luật của Hàn Quốc, có trụ sở chính tại Hàn Quốc và không có cơ quan quản lý, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam) được Công ty Thiên Phú (là doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam, có trụ sở tại Việt Nam) chỉ định làm nhà thầu cung cấp dịch vụ thiết kế cho Dự án đầu tư xây dựng công trình “Câu lạc bộ quốc gia và sân Golf Đôi Chim Câu” tại xã Thiên Phú, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương theo Hợp đồng dịch vụ được ký kết ngày 15/6/2007. Quá trình giải quyết tranh chấp giữa hai Công ty về hợp đồng dịch vụ nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã có những sai sót sau:

-Về việc xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Xây dựng năm 2003 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 (“1. Hoạt động xây dựng bao gồm lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình, thi công xây dựng công trình, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng và các hoạt động khác có liên quan đến xây dựng công trình); quy định tại Phần 1 Thông tư số 02/2005/TT-BXD của Bộ Xây dựng hướng dẫn hợp đồng trong hoạt động xây dựng: Hợp đồng trong hoạt động xây dựng (sau đây gọi tắt là hợp đồng xây dựng) là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa Bên giao thầu và Bên nhận thầu để thực hiện toàn bộ hay một hoặc một số công việc trong hoạt động xây dựng. Hợp đồng xây dựng là văn bản có giá trị pháp lý ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng phải có trách nhiệm thực hiện các điều khoản đã ký kết, là căn cứ để thanh toán và phân xử các tranh chấp (nếu có) trong quan hệ hợp đồng; 2. Phạm vi và đối tượng áp dụng:... Đối tượng áp dụng: Thông tư này áp dụng đối với Bên giao thầu và Bên nhận thầu là tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có đủ điều kiện năng lực hoạt động, năng lực hành nghề khi tham gia ký kết hợp đồng thực hiện các hoạt động xây dựng tại Việt Nam... 3. Các loại hợp đồng: Tuỳ theo quy mô, tính chất của công trình, loại công việc, các mối quan hệ của các bên, hợp đồng xây dựng có thể có nhiều loại với nội dung khác nhau, cụ thể: a. Hợp đồng tư vấn: được ký kết giữa Bên giao thầu và Bên nhận thầu để thực hiện các công việc tư vấn như: lập quy hoạch xây dựng; lập dự án đầu tư xây dựng công trình; khảo sát xây dựng; thiết kế xây dựng công trình; lựa chọn nhà thầu; giám sát thi công xây dựng công trình; quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; thẩm tra thiết kế, tổng dự toán, dự toán và các hoạt động tư vấn khác có liên quan đến xây dựng công trình...) và nội dung các thỏa thuận tại “Hợp đồng dịch vụ”, có căn cứ xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp trong vụ án là hợp đồng dịch vụ trong hoạt động xây dựng, nên phải áp dụng Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng để giải quyết vụ án.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp trong vụ án là “Hợp đồng dịch vụ” đồng thời áp dụng các quy định tại Bộ luật dân sự và Luật thương mại để giải quyết vụ án là không đúng.

-Về tính hợp pháp của Hợp đồng dịch vụ ngày 15/6/2007:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Xây dựng năm 2003 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì tổ chức thực hiện thiết kế xây dựng công trình phải đáp ứng các điều kiện sau: “a. Có đăng ký hoạt động thiết kế xây dựng công trình; b. Có đủ điều kiện năng lực hoạt động thiết kế xây dựng công trình...”. Công ty Orange có xuất trình tài liệu là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 129-81-86201 được cấp ngày 9/12/2008 với lý do bổ sung hoạt động kinh doanh để chứng minh Công ty Orange có chức năng thực hiện Dịch vụ kỹ thuật và dịch vụ thiết kế, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm có thiếu sót khi không yêu cầu đương sự cung cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty Orange được cấp trước ngày 9/12/2008,  nên  không  đủ  cơ  sở  xác  định  tại  thời  điểm  ký  kết  Hợp  đồng  dịch  vụ  (ngày 15/6/2007), Công ty Orange có đủ điều kiện thực hiện thiết kế xây dựng công trình tại Việt Nam hay không?Đối với Công ty Thiên Phú, theo lời trình bày của đại diện Công ty và con dấu đóng trên các giấy tờ, tài liệu gửi đến Tòa án thì Công ty Thiên Phú là Công ty liên doanh với nước ngoài, có trụ sở chính tại thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không thu thập Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép đầu tư của Công ty Thiên Phú đã được cấp cũng là thiếu sót.

Mặt khác, theo quy đinh tại Quy chế Quản lý lao động của nhà thầu nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng tại Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 87/2004/QĐ-TTg ngày

19/5/2004 của Thủ tướng Chính phủ) thì: “Điều 2. Giải thích từ ngữ....1. “Nhà thầu nước ngoài” là tổ chức, cá nhân nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự; đối với cá nhân còn phải có năng lực hành vi dân sự để ký kết và thực hiện hợp đồng. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của nhà thầu nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà nhà thầu có quốc tịch...8. “Tư vấn đầu tư và xây dựng” là các công việc có tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư và xây dựng bao gồm tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng, khảo sát xây dựng, thiết kế kiến trúc, thiết kế kỹ thuật, quản lý dự án đầu tư xây dựng, giám sát thi công xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật, kinh tế-kỹ thuật khác đối với dự án đầu tư xây dựng... 10. Giấy phép thầu là giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp cho nhà thầu nước ngoài theo từng hợp đồng sau khi trúng thầu hoặc được lựa chọn thầu theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Điều 3. Nguyên tắc quản lý hoạt động của nhà thầu nước ngoài: l. Nhà thầu nước ngoài chỉ được hoạt động tại Việt Nam sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp giấy phép thầu; 2. Hoạt động của nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam phải tuân theo các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập”. Nhưng theo tài liệu có trong hồ sơ thể hiện Công ty Orange đã ký kết và thực hiện Hợp đồng dịch vụ khi không có “Giấy phép thầu” do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp theo quy định đã viện dẫn nêu trên. Trong trường hợp này, Tòa án phải làm rõ khi ký kết, thực hiện Hợp đồng dịch vụ, Công ty Orange và Công ty Thiên Phú có làm thủ tục để được cấp “Giấy phép thầu” theo quy định hay không? nếu đã làm thủ tục thì vì sao không được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp “Giấy phép thầu”? Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ tài liệu và chưa làm rõ các vấn đề nêu trên mà đã xác định Hợp đồng dịch vụ ngày 15/6/2007 là hợp đồng hợp pháp (xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Orange chấm dứt hợp đồng dịch vụ ngày 15/6/2007; buộc Công ty Thiên Phú thanh toán số tiền 3.720.448.347 đồng cho Công ty Orange) đều là không đúng.

-Tại Điều 4 của Hợp đồng dịch vụ quy định Công ty Thiên Phú có nghĩa vụ phải thanh toán cho Công ty Orange 160.000.000 KRW trên cơ sở chấp nhận CD và bản vẽ chi tiết do Công ty Orange thực hiện. Tại Điều 12 của Hợp đồng dịch vụ quy định Công ty Thiên Phú phải hoàn thành việc kiểm tra trong 10 ngày kể từ ngày nhận được sản phẩm dịch vụ từ bên thiết kế và phải thông báo kết quả kiểm tra. Trường hợp không có thông báo khác thì việc kiểm tra coi như là đã thông qua.

Quá trình giải quyết vụ án, hai bên đương sự trình bày thống nhất là Công ty Orange đã bàn giao cho Công ty Thiên Phú CD cùng bộ bản vẽ chi tiết của Dự án, nhưng việc bàn giao không được lập thành văn bản. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại không làm rõ Công ty Orange đã bàn giao sản phẩm thiết kế vào ngày nào; sản phẩm thiết kế được bàn giao gồm những gì nội dung và khối lượng công việc được Công ty Orange thực hiện có đúng như thỏa thuận của hai bên không? Trong vòng 10 ngày sau khi nhận bàn giao, Công ty Thiên Phú có ý kiến phản hồi về sản phẩm không (nếu có phản hồi thì phản hồi bằng hình thức nào, nếu không có phản hồi thi sau khi bàn giao sản phẩm hai bên có thỏa thuận gì khác không)? có việc Công ty Orange tiếp tục bàn giao các bản thiết kế sau khi hoàn chỉnh theo yêu cầu của Công ty Thiên Phú vào tháng 11/2007 và tháng 01/2008 như trình bày của Công ty Thiên Phú hay không, nếu có việc bàn giao này thì bàn giao trên cơ sở thỏa thuận nào giữa hai bên? Công ty Thiên Phú đã sử dụng một phần hay toàn bộ sản phẩm thiết kế của Công ty Orange và Công ty Thiên Phú đã phải thuê Công ty khác hoàn thiện thiết kế như thế nào...

Do đó, khi giải quyết lại vụ án để có đủ cơ sở giải quyết vụ án được chính xác, đúng pháp luật thì Tòa án (dù xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu hay hợp pháp) đều phải yêu cầu các bên đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cũng như sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác để làm rõ các vấn đề nêu trên. Nếu xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì phải buộc Công ty Thiên Phú phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng. Còn nếu Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải buộc Công ty Thiên Phú phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; các khoản 1 và 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 127/2011/KDTM-PT ngày 12/8/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2011/KDTM-ST ngày 7/4/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tên bản án

Bản án số 249/2013/KDTM-GĐT tranh chấp hợp đồng dịch vụ

Số hiệu 249/2013/KDTM-GĐT Ngày xét xử 13-8-2013
Bình luận án