QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 08/2008/KDTM-GĐT NGÀY 24/11/2008 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ MUA BÁN HÀNG HÓA

TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

Ngày 24 tháng 11 năm 2008, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa giữa:

Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Dương (sau đây viết tắt là Công ty Thái Dương); có trụ sở tai khu công nghiệp Phố Nối A, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; do ông Mai Lương Thoan – cán bộ Công ty làm đại diện theo Giấy ủy quyền số 060103/GUQ ngày 02 tháng 01 năm 2006 của Tổng giám đốc Công ty Thái Dương;

Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Tập; trú tại tổ 1, thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/01/2006 đứng tên ông Mai Lương Thoan (đại diện theo ủy quyền của Công ty Thái Dương), lời trình bày của ông Thoan và các tài liệu, chứng cứ do Công ty Thái Dương cung cấp thì: từ tháng 9/2003, ông Nuyễn Hữu Tập (là đại lý của Công ty Thái Dương) đã nhiều lần mua hàng (thức ăn gia súc) của Công ty Thái Dương để kinh doanh và đều thanh toán tiền đầy đủ. Ngày 30/03/2005, ông Tập nhận của Công ty Thái Dương 1000kg thức ăn gia súc nhãn hiệu “sư tử vàng”, thành tiền là 7.398.000 đồng. Ông Tập đã thanh toán được 3.000.000 đồng, còn nợ 4.398.000 đồng. Ngày 30/5/2005, Công ty Thái Dương có Thông báo công nợ gửi ông Tập và ông Tập đã ký xác nhận vào bản Thông báo này. Tuy nhiên, sau đó ông Tập không thanh toán nợ. Vì vậy, Công ty Thái Dương yêu cầu ông Tập phải thanh toán số tiền hàng còn thiếu và tiền lãi phát sinh.

Ông Nuyễn Hữu Tập thừa nhận còn nợ Công ty Thái Dương số tiền 4.398.000 đồng của đợt hàng cuối cùng và đã ký xác nhận vào bản Thông báo công nợ của Công ty Thái Dương nhưng ông không đồng ý thanh toán nợ với lý do: đại diện của Công ty Thái Dương đã hợp đồng (miệng) để ông làm đại lý độc quyền bán thức ăn gia súc nhãn hiệu “sư tử vàng” tại địa bàn thị trấn Vị Xuyên, nhưng sau đó lại giao loại hàng này cho một số cửa hàng khác trên địa bàn thị trấn Vị Xuyên bán, từ đó cho rằng Công ty Thái Dương đã vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại cho ông.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2007/KDTM-ST ngày 06/3/2005, Tòa án nhân dân huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang đã quyết định “…Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Dương đối với anh Nguyễn Hữu Tập về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa. Xử buộc anh Nguyễn Hữu Tập phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Dương số tiền 6.010.966 đồng…”

Ngày 15/3/2007, ông Nuyễn Hữu Tập có đơn kháng cáo toàn bộ bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 13/2007/KDTM-PT ngày 13/6/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đã quyết định “xử hủy quyết định của bản án số 05/2007/KDTM-ST ngày 06/3/2005, Tòa án nhân dân huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Giao hồ sơ về cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung với Hội đồng xét xử khác…”

Ngày 14/8/2007, Chánh án Tòa án nhân dân huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang có văn bản đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Kháng nghị số 07/2008/KDTM-KN-TKT ngày 04/9/2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 13/2007/KDTM-PT ngày 13/6/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang, đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm của Tòa Kinh tế, Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy dịnh của pháp luật.

Tại Kết luận số 16/KL-VKSTC-V12 ngày 24/9/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đồng ý với kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao,

XÉT THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thấy ông Nuyễn Hữu Tập không chứng minh được việc Công ty Thái Dương đã hợp đồng để ông làm đại lý độc quyền hàng thức ăn gia súc nhãn hiệu “Sư tử vàng” tại địa bàn thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Theo lời khai của ông Tập và thực tế thực hiện hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa thì khi phát hiện có một số đại lý khác trên địa bản thị trấn Vị Xuyên bán thức ăn gia súc nhãn hiệu “Sư tử vàng”, ông Tập không xuất trình được tài liệu để chứng minh ông đã có khiếu nại với Công ty Thái Dương về việc Công ty vi phạm hợp đồng đại lý độc quyền, các lần nhận hàng ông đều tiêu thụ và thanh toán đủ tiền hàng. Về đợt nhận 1000kg hàng thức ăn gia súc nhãn hiệu “Sư tử vàng” của Công ty Thái Dương , ông tập đã tiêu thụ hết, đã thanh toán được 3.000.000 đồng và ký xác nhận nợ vào Bảng theo dõi hàng tháng, bản Thông báo công nợ ngày 30/5/2005 của Công ty Thái Dương với số tiền nợ gốc của đợt giao hàng nêu trên là 4.398.000 đồng.

Theo đơn khởi kiện của Công ty Thái Dương và theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại thì Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập các quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất cơ bản theo từng thời kỳ, tương ứng với thời gian chậm thanh toán tiền hàng nêu trên của ông Tập, đồng thời cũng đã tiến hành xác minh về các quyết dịnh xác định mức lãi suất trên tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Vị Xuyên.

Như vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Vị Xuyên với lý do vi phạm thủ tục tố tụng trong thu thập, xác minh chứng cứ là không có căn cứ. Mặt khác, theo hồ sơ vụ án thì trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm tính lãi suất phát sinh trên số tiền hàng mà ông Tập chưa thanh toán là không đúng hoặc không đầy đủ, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể khắc phục được khi thụ lý và xét xử phúc thẩm. Kháng nghị số 07/2008/KDTM-KN-TKT ngày 04/9/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 13/2007/KDTM-PT ngày 13/6/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang là có căn cứ.

Căn cứ theo hồ sơ vụ án này thì bà Phạm Thị Dung, vợ ông Nuyễn Hữu Tập đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số 10H8000042/HKD do Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên cấp lần đầu vào ngày 15/02/2004 và cấp lần 2 vào ngày 09/02/2006. Theo lời khai của ông Tập và bản tự khai của bà Dung tại Tòa án cấp sơ thẩm thì việc thỏa thuận của ông Tập với Công ty Thái Dương trong việc nhận hàng, tiêu thụ hàng thức ăn gia súc, bà Dung đều biết và tham gia với ông Tập. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Dung là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là đúng. Khi thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không đưa bà Phạm Thị Dung tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót nên cần được khắc phục khi xét xử phúc thẩm lại. Ngoài ra, theo biên bản phiên tòa phúc thẩm (bút lục số 189 ¸ 192) và biên bản nghị án ngày 13/06/2007 thì Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bản án vào ngày 15/06/2007 và như vậy, ngày của bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 13/2007/KDTM-PT không phải là ngày 13/06/2007 như đã được ghi trên bản án này.

Cũng theo hồ sơ vụ án thì biên bản nghị án của Hội đồng xét xử sơ thẩm ngày 06/03/2007 không phù hợp về hình thức như phần ghi Hội thẩm nhân dân tham gia nghị án là ông Giàng Xuân Phùng và ông Lộc Văn Pao nhưng khi ký tên biên bản nghị án là các Hội thẩm nhân dân khác là ông Lê Xuân Mai và bà Vương Thị Liên. Tuy nhiên, thiếu sót trên không làm thay đổi việc giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử sơ thẩm vì theo biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 06/3/2007 và bản án gốc thì ông Lê Xuân Mai và bà Vương Thị Liên đã tiến hành tố tụng tại phiên tòa trên và ký vào bản án sơ thẩm. Ngoài thiếu sót trên, Tòa án cấp sơ thẩm thông báo cho ông Tập nộp 50.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm là không đúng với quy định của Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí tòa án bởi tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong vụ án kinh doanh thương mại là 200.000 đồng. Tuy nhiên, thiếu sót này Tòa án cấp phúc thẩm khắc phục được.

Vì lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận Kháng nghị số 07/2008/KDTM-KN-TKT ngày 04/9/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 13/2007/KDTM-PT ngày 13/6/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang .

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 08/2008/KDTM-GĐT về việc tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English