QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 212/2014/DS-GĐT NGÀY 03/06/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 03/6/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa các đưcmg sự:

Nguyên đơn: Ông Quan Diên Nam - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng.

Địa chỉ: D11/301B Trịnh Quang Nghị, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Công ty TNHH Hoàng Gia Long An:

Địa chỉ: ấp Mới 2, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Theo Kháng nghị số 22/QD/KNGDT-V5 ngày 24/4/2014 của Viện trưởn Viện kiếm sát nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 150/2011/DSPT ngày 14/6/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

NHẬN THẤY
Theo Đơn khởi kiện ngày 28/11/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông Quan Diên Nam - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng và ông Trương Quốc Huê, đại diện được ủy quyền của nguyên đơn trình bày: vào ngày 30/7/2009, tại Phòng công chứng số 04 tỉnh Long An, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An có ký họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng với diện tích 22.248m2 ở thửa 454 tờ bản đồ số 14 thuộc khu công nghiệp Hoàng Gia Long An tại ấp Mới 2, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An với giá chuyển nhượng là 2.000.000.000 đồng, nhưng giá chuyển nhượng thực tế là 3.400.000.000 đồng. Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng đã thanh toán tiền xong cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An không xuất hóa đơn chuyển quyền.

Ngày 11/5/2010, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An do bà Bùi Thị Kim Hoa đại diện có ký giấy cam kết sẽ thanh toán lại 3.400.000.000 đồng cho Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hung, nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An cũng không thực hiện .

Tại đơn khởi kiện, ông Quan Diên Nam - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An thực hiện hợp đồng đã ký ngày 30/7/2009. Tuy nhiên tại Biên bản lấy lời khai ngày 23/3/2011, ông Trương Quốc Huê là người đại diện theo ủy quyền của ông Nam đã thay đổi yêu cầu khởi kiện, theo đó yêu cầu Tòa án buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An phải trả số tiền 3.400.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại với số tiền là 3.400.000.000 đồng, tổng cộng yêu cầu là 6.800.000.000 đồng.

Bị đơn - Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An do bà Nguyễn Thị Diễm Phương đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An trình bày: Công ty trách nhiệm hũư hạn Hoàng Gia Long An có vay tiền của Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng và thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhưng để làm tin, hai bên có ký giấy vay với hình thức lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Phòng công chứng số 04 tỉnh Long An ngày 30/7/2009 với diện tích là 22.248m2 ở thửa 454 tờ bản đồ số 14 thuộc khu công nghiệp Hoàng Gia Long An tại ấp Mới 2, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Sau khi ký họp đồng xong, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An có nhận tiền vay nhiều đợt của Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng bao gồm lần 01 nhận 1.500.000.000 đồng; lần 02 nhận 500.000.000 đồng; lần 03 nhận 800.000.000 đồng. Đến ngày 11/5/2010, Công ty làm giấy cam kết cho Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng tính vốn và lãi thành 3.400.000.000 đồng. Nay Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An yêu cầu hủy họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng và đồng ý trả lại số tiền 3.400.000.000 đồng cùng lãi suất Ngân hàng từ ngày 11/6/2010 cho đến nay.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 72/2011/DSST ngày 19/4/2011, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An quyết định:

Hủy Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng tại Phòng công chứng số 04 tỉnh Long An ngày 30/7/2009 giữa Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng và Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An.

Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An trả cho Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng số tiền 6.800.000.000 đồng.

Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An một bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 157586 ngày 13/02/2007.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng khác, về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 29/4/2011, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An có đơn kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 150/2011/DSPT ngày 14/6/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An do bà Bùi Thị Kim Hoa - Giám đốc đại diện theo pháp luật.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 72/2011/DSST ngày 19/4/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng tại Phòng công chứng số 04 tỉnh Long An ngày 30/7/2009 giữa ông Quan Diên Nam-Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng với Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An.

Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An trả cho ông Quan Diên Nam - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng số tiền 6.800.000.000đ. Buộc ông Quan Diên Nam - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An một bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH157586 ngày 13/02/2007 của ủy ban nhân dân tỉnh Long An cấp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng khác, về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 10/3/2014, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An có đơn khiếu nại giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Kháng nghị số 22/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 24/4/2014, Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 150/2011/DSPT ngày 14/6/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 72/2011/DSST ngày 19/4/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định như sau:

“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/7/2009 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An (Công ty TNHH Hoàng Gia Long An) với Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng (DNTN Nam Tín Hưng) diện tích 22.248m2 thửa 454 tờ bản đồ số 14 thuộc khu công nghiệp Hoàng Gia Long An tại ấp Mới 2, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An giá chuyển nhượng 2.000.000.000 đồng, đã được công chứng tại Phòng công chứng số 4 tỉnh Long An. DNTN Nam Tín Hưng xác định đã thanh toán tiền cho Công ty TNHH Hoàng Gia Long An căn cứ vào Giấy cam kết ngày 11/5/2010 của Công ty TNHH Hoàng Gia Long An do bà Bùi Thị Kim Hoa đại diện có ký cam kết sẽ thanh toán 3.400.000.000 đồng cho DNTN Nam Tín Hung trong vòng 30 ngày, nếu không thanh toán hết số tiền trên Công ty chúng tôi sẽ xuất hóa đơn bán lô đất trên cho DNTN Nam Tín Hưng.

Xét thấy, họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đã được công chứng về hình thức tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Thực tế DNTN Nam Tín Hưng không chúng minh được việc thanh toán tiền và hai bên chưa giao nhận đất. Giấy cam kết ngày 11/5/2010 của Công ty TNHH Hoàng Gia Long An thể hiện sẽ thanh toán số tiền 3.400.000.000 đồng cho DNTN Nam Tín Hưng trong vòng 30 ngày, nếu không thanh toán thì sẽ xuất hóa đơn bán lô đất 22.248m2 thửa 454 tờ bản đồ số 14 cho DNTN Nam Tín Hưng. Như vậy, nội dung của Giấy cam kết thể hiện rõ thực chất quan hệ giữa các bên là vay tài sản bằng việc lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tòa án các cấp xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đảm bảo về hình thức và nội dung, yêu cầu bên bán tiếp tục thực hiện hợp đồng, nhung bên bán không tiếp tục thực hiện, lỗi hoàn toàn thuộc về bên bán nên buộc Công ty TNHH Hoàng Gia Long An trả cho DNTN Nam Tín Hưng 6.800.000.000 đồng (thực tế giá đất là 1.000.000đ/m2) là không phù họp với thực tế và quy định của pháp luật”.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 03/6/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên nội dung nêu trong Kháng nghị và đề nghị Hội đồng Giám đốc thẩm chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì ngày 30/7/2009, tại Phòng công chứng số 04 tỉnh Long An, Công ty TNHH Hoàng Gia Long An có ký Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Quan Diên Nam - Chủ DNTN Nam Tín Hưng với diện tích 22.248m2 ở thửa 454 tờ bản đồ số 14 thuộc khu công nghiệp Hoàng Gia Long An tại ấp Mới 2, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An với giá chuyển nhượng là 02 (hai) tỷ đồng, hình thức thanh toán bằng tiền mặt, việc thanh toán do hai bên tự thực hiện (BL26). Tại Đơn khởi kiện ngày 28/11/2010 (BL20), lời trình bày tại Biên bản hòa giải ngày 25/02/2011 (BL35+36), lời khai (không ngày, tháng) (BL38), ông Nam cho rằng giá chuyển nhượng thực tế diện tích đất nêu trên là 3,4 tỷ đồng. Ồng Trương Quốc Huê, đại diện được ủy quyền của ông Nam, tại lời khai ngày 22/3/2011 (BL39); Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 18/4/2011 (BL41+46) và tại Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 14/6/2011 (BL63+70) cũng cho rằng giá chuyển nhượng thực tế là 3,4 tỷ đồng và DNTN Nam Tín Hưng đã thanh toán đủ cho Công ty số tiền trên với chứng cứ là Giấy cam kết ngày 11/5/2010 của Công ty TNHH Hoàng Gia Long An. Tuy nhiên, sau khi nhận đủ tiền, mặc dù DNTN Nam Tín Hưng đề nghị nhiều lần nhưng Công ty không làm thủ tục chuyển nhượng diện tích đất nêu trên theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên. Còn Công ty TNHH Hoàng Gia Long An không thừa nhận Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên và cho rằng thực chất Công ty chỉ vay tiền của ông Huê, tính cả gốc và lãi là 3,4 tỷ đồng, họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký giữa Công ty với DNTN Nam Tín Hưng chỉ là họp đồng giả cách nhằm che dấu quan hệ vay tài sản giữa Công ty với ông Huê.

Xét nội dung Giấy cam kết ngày 11/5/2010 của Công ty TNHH Hoàng Gia Long An thấy việc điều chỉnh giá chuyển nhượng lô đất từ 02 tỷ đồng thành 3,4 tỷ đồng giữa hai bên là không có. Ngược lại, nội dung của Giấy cam kết này lại phản ánh Công ty TNHH Hoàng Gia Long An cam kết sẽ thanh toán 3,4 tỷ đồng cho DNTN Nam Tín Hưng trong vòng 30 ngày, nếu không thanh toán hết số tiền nêu trên thì Công ty sẽ xuất hóa đơn bán lô đất cho DNTN Nam Tín Hưng. Mặt khác, tại Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 14/6/2011 (BL 63+70), ông Huê xác nhận có việc thỏa thuận giữa 02 bên là: Nếu Công ty trả nợ thì ông (Huê) sẽ hủy Họp đồng chuyến nhượng quyền sử dụng đất nhưng chỉ có giá trị trong 30 ngày. Do đó, Tòa án cấp sơ thấm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định giữa DNTN Nam Tín Hưng và Công ty TNHH Hoàng Gia Long An đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá là 3,4 tỷ đồng, DNTN Nam Tín Hưng đã thực hiện xong nghĩa vụ giao tiền, họp đồng đã bảo đảm cả hình thức và nội dung, lỗi không thực hiện họp đồng là của Công ty nên Công ty phải bồi thường thiệt hại cho DNTN Nam Tín Hưng là chưa đủ căn cứ.

Liên quan đến số tiền 3,4 tỷ đồng, cả ông Nam và ông Huê đều cho rằng đã thanh toán đủ cho Công ty. Tuy nhiên, trình bày của ông Nam và ông Huê còn nhiều mâu thuẫn về số lần thanh toán, về người đứng ra thanh toán và nơi thanh toán. Cụ thể, tại Biên bản hòa giải ngày 25/02/2011 (BL 35+36), ông Nam cho rằng DNTN Nam Tín Hưng đã giao số tiền nêu trên cho Công ty tại Phòng Công chứng, còn ông Huê, tại Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 14/6/2011 lại cho rằng có 02 lần giao tiền cho Công ty, trước đó tại phiên tòa sơ thẩm ngày 18/4/2011 (BL 41+46) ông Huê trình bày ông Nam giao một lần số tiền trên (bằng tiền mặt) cho ông Châu, bà Hoa, trong khi đó tại mặt sau của Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/7/2009 chỉ có xác nhận, chữ ký của ông Châu có đóng dấu của Công ty về việc đã nhận đủ tiền nhưng cụ thể số tiền là bao nhiêu? là 02 tỷ đồng theo đúng giá của hợp đồng hay là 3,4 tỷ đồng? đồng thời lời khai, trình bày của đại diện Công ty cũng không thống nhất về số tiền vay, số lần vay và đối tượng cho vay. Cụ thể, tại lời khai ngày 15/12/2010 (BL 37), Biên bản hòa giải ngày 25/02/2011 (BL 35+36) Công ty chỉ chỉ chấp nhận trả cho DNTN Nam Tín Hưng 1,5 tỷ đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 18/4/2011, phiên tòa phúc thẩm ngày 14/6/2011 và tại đơn khiếu nại giám đốc thẩm ngày 10/3/2014, Công ty cho rằng đã vay của ông Huê 03 lần (lần 01: 1,5 tỷ đồng; lần 02: 500 triệu đồng; lần 03: 800 triệu đồng) nhưng không nhớ thời gian vay, sau đó tính thêm lãi nên ngày 11/5/2010, Công ty mới làm giấy cam kết với DNTN Nam Tín Hưng.

Tuy nhiên tại đơn kháng cáo ngày 29/4/2011 (BL 50+51), Công ty lại cho rằng đã vay của ông Huê 04 lần (lần 01: 1,5 tỷ đồng; lần 02: 500 triệu đồng; lần 03: 200 triệu đồng; lần 04: 800 triệu đồng), sau đó tính thêm 400 triệu đồng tiền lãi nên có tổng số tiền là 3,4 tỷ đồng. Như vậy, với trình bày của các bên đương sự còn nhiều mâu thuẫn như trên thì cũng chưa đủ cơ sở để xác định thực chất chỉ có việc Công ty vay tiền của ông Huê hay của DNTN Nam Tín Hưng như Công ty TNHH Hoàng Gia Long An đã trình bày. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định Giấy cam kết ngày 11/5/2010 của Công ty TNHH Hoàng Gia Long An đã thể hiện thực chất quan hệ giữa các bên là vay tài sản bằng việc lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là chưa đủ cơ sở vững chắc.

Để xác định đúng quan hệ tranh chấp giữa các bên là họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay là vay tài sản (tiền) thì cần thiết phải triệu tập và lấy lời khai của ông Võ Văn Châu (người ký vào mặt sau của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất) nhằm làm rõ ông Châu nhận đủ tiền thì số tiền cụ thể là bao nhiêu? nhận mấy lần, số tiền cụ thể của từng lần? vào thời gian nào? tại đâu? ông Châu nhận tiền là vay cho cá nhân hay cho Công ty? hay nhận để thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và số tiền là bao nhiêu? Đồng thời cũng cần triệu tập và lấy lời khai đối với người làm chứng là bà Nguyễn Thị Hòa nhằm xác minh nội dung làm chúng tại Giấy ngày 08/6/2011 của bà Hòa (BL62). Trên cơ sở đó, áp dụng Điều 88 Bộ luật tố tụng dân sự để tiến hành đối chất giữa ông Châu, bà Hòa, ông Nam, ông Huê, bà Hoa nhằm làm rõ những nội dung còn mâu thuẫn theo lời trình bày của các đương sự, của những người làm chứng.

Ngoài ra, cũng cần làm rõ mối quan hệ giữa ông Huê và ông Nam, Chủ DNTN Nam Tín Hưng, thực tế ông Huê hay ông Nam là người giao tiền cho ông Châu, cho Công ty? Nếu ông Nam là người trả tiền thì phải chứng minh bằng sổ sách kế toán của DNTN Nam Tín Hưng. Hơn nữa để đánh giá có việc thực hiện họp đồng chuyển nhượng quyền sir dụng đất giữa hai bên thì cũng cần căn cứ vào Điều 4 của hợp đồng này để xem xét sau khi Công ty TNHH Hoàng Gia Long An đã nhận đủ tiền theo hợp đồng đã ký thì DNTN Nam Tín Hưng có làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nhận chuyển nhượng tại cơ quan có thẩm quyền tại địa phương hay không? có thông báo cho Công ty TNHH Hoàng Gia Long An để cùng thực hiện thủ tục này không? nếu có thì đăng ký quyền sử dụng đất với diện tích là 22.248m2 đất hay 15.258m2 đất như ông Huê đã trình bày tại lời khai ngày 22/3/2011 (BL 39) và tại phiên tòa sơ thẩm ngày 18/4/2011 (BL 41+46). Chỉ trên cơ sở tổng hợp, đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và chứng cứ được thu thập, xác minh thêm mới có đủ căn cứ xác định hai bên đã ký và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay thực chất chỉ là quan hệ vay tài sản như Công ty đã trình bày. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/7/2009 và buộc Công ty TNHH Hoàng Gia Long An phải bồi thường cho DNTN Nam Tín Hưng 3,4 tỷ đồng là chưa đủ căn cứ vì cả hai bên đều đề nghị hủy hợp đồng này với lý do khác nhau, DNTN Nam Tín Hưng chưa xuất trình được chứng cứ chứng minh thiệt hại là 3,4 tỷ đồng. Mặt khác, như trên đã nêu, Tòa án các cấp chưa làm rõ được quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay vay tài sản.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Kháng nghị số 22/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 24/4/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 150/2011/DS-PT ngày 14/6/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 72/2011/DSST ngày 19/4/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An về vụ án “Tranh chấp họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Quan Diên Nam, Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nam Tín Hưng với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Gia Long An.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 212/2014/DS-GĐT NGÀY 03/06/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án