QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 519/2014/DS-GĐT NGÀY 16/12/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN VÀ CHIA TÀI SẢN CHUNG

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 16/12/2014 xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 97/2013/DSPT ngày 11/4/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về vụ án “Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản và chia tài sản chung” bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, có các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Văn Bảy, sinh năm 1932; trú tại ấp Ngã Tư, xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An; ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Á, sinh năm 1956, trú tại ấp Gò Thuyền, thị trấn Tân Hưng, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An đại diện (văn bản ủy quyền ngày 15/3/2013).

Bị đơn: Nguyễn Thị cẩm Hồng, sinh năm 1946; trú tại số 17 ấp Hậu Phú 2, xã Hậu Mỹ Bắc A, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ngô Thanh Phong, sinh năm 1974;

2. Phạm Thị Dung, sinh năm 1973;

Anh Phong, chị Dung đều trú tại ấp Ngã Tư, xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện ngày 08/12/2010 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Bảy trình bày:

Năm 1994, ông và bà Nguyễn Thị cẩm Hồng chung sống với nhau như vợ chồng (không đăng ký kết hôn). Trong thời gian chung sống với bà Hồng, ông Bảy đã đưa cho bà Hồng:

- 20 chỉ vàng 24k để bà Hồng trả nợ riêng trước khi về chung sống với nhau;

- Cho bà Hồng 10.000.000d để tiêu sài trong thời gian chấp hành hình phạt tù (hô sơ không có tài liệu tù về tội gì, thời hạn bao nhiêu);

- Giao cho bà Hồng cất giữ tài sản do hai người tạo lập gồm 01 đôi bông tai 10 chỉ vàng, 05 chỉ vàng và 50.000.000đ (không có tài liệu chứng minh giao).

Ngoài ra, ông còn nhận chuyển nhượng 18.942m2 đất của bà Chắc Thi Nhớ (nay bà Nhớ đã chết), giá 12 chỉ vàng, nhưng sau đó bà Bảy làm thủ tục đứng tên riêng. Nguồn gốc tiền để mua đất của là do ông trúng vé số và vay mượn của một sô người khác; sau này ông và bà Hông làm ruộng có tiền đã trả nợ tiền vay mua đất.

Năm 2008, hai người không còn chung sống với nhau nữa. Nay ông yêu cầu bà Hồng trả lại 35 chỉ vàng, 60.000.000d và 16.398m2 đất (đã trừ diện tích đất bà Hồng hiến làm lộ giới) gồm thửa 481, 517, 518 và một phần thửa 515, 516 tờ bản đồ số 11, tại xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An (theo bản đồ đo đạc năm 2011 là các thửa 1514, 1541, 1556, 1582 và 1603 tờ bản đồ số 7).

Bị đơn là bà Nguyễn Thị cẩm Hồng trình bày:

Bà thừa nhận có chung sống với ông Bảy như vợ chồng từ năm 1994 đến hết năm 2008. Trong thời gian chung sống, ông Bảy tự nguyện trả nợ thay cho bà 20 chỉ vàng nợ phát sinh trước khi bà về chung sống với ông Bảy. trong thời gian chung sống thì ông Bảy có tặng cho bà 01 đôi bông tai 10 chỉ vàng 24k; còn 05 chỉ vàng ông Bảy đưa cho bà là do ông Bảy thu tiền cho thuê đất hiện đang tranh chấp rồi mua vàng và đưa cho bà, nay bà đã tiêu hết; ông Bảy cho bà 10 triệu đế tiêu sài cá nhân, còn 50 triệu là không có.

Riêng diện tích đất tranh chấp là do nhận chuyển nhượng của bà Chắc Thị Nhớ giá 12 chỉ vàng, trong đó có 07 chỉ vàng là của cụ Nguyễn Thị Định (cô ruột của bà cho bà, nay đã chết nên không có tài liệu chứng minh-BL45) cho riêng bà, còn 05 chỉ vàng là của bà với ông Bảy cùng sản xuất trên đất mua để trả cho bà Nhớ; bà đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay bà không đồng ý các yêu cầu của ông Bảy.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Ngô Thanh Phong và chị Phạm Thị Dung (vợ anh Phong) trình bày:

Tháng 5/2010, vợ chồng anh chị có thuê đất do bà Hồng đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời hạn thuê là 03 năm đến 7/2013, giá 50 triệu. Neu Tòa án quyết định đất của ông Bảy, thì anh chị đồng ý trả. Trường họp nếu còn thời hạn thuê thì anh, chị với bà Hồng sẽ giải quyết, nếu không được thì sẽ khởi kiện bằng vụ kiện khác.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 10/2011/DSST ngày 14/7/2011, Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng quyết định (tóm tắt):

1-  Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bảy.

2-  Buộc bà Hồng thanh toán cho ông Bảy V2 giá trị 15.844m2 đất, thành tiền là 198.050.000đ và 7,5 chỉ vàng 24k.

3-   Bà Hồng được tiếp tục sử dụng 15.844m2 đất tại các thửa...tại xã Hưng Điền B....(có trích đo địa chính kèm theo).

4-  Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bảy đòi bà Hồng 27,5 chỉ vàng và 60 triệu và Vt. giá trị 15.844m2 đất...

Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí định giá đo đạc, lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án.

Ngày 25/7/2011, ông Bảy kháng cáo.

Ngày 26/7/2011, bà Hồng kháng cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 97/2013/DS-PT ngày 11/4/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã sửa Bản án dân sự sơ thẩm như sau:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Bảy đối với bà Nguyễn Thị cẩm Hồng.

1. Buộc bà Nguyễn Thị cẩm Hồng phải trả cho ông Nguyễn Văn Bảy 2,5 chỉ vàng 24kara. Vàng không tính lãi suất chậm trả.

2. Hủy hợp đồng thuê đất giữa bà Nguyễn Thị cẩm Hồng với anh Ngô Thanh Phong và chị Phạm Thị Dung diện tích 16.398m2 tại thửa 418 (481), 517, 518 và 01 phần các thửa 515, 516 tờ bản đồ số 11 nhưng theo hiện trạng và bản đồ đo đạc mới năm 2011 có các số thửa là 1514, 1541, 1556, 1582 và 1603 tờ bản đồ số 7.

- Buộc Bà Nguyễn Thị cẩm Hồng, anh Ngô Thanh Phong, chị Phạm Thị Dung phải giao cho ông Nguyễn Văn Bảy diện tích đất 8.199m2 có các số thửa là 1514, 01 phần thửa 1541 diện tích 5.095m2, 01 phần thửa 1556 diện tích 2.354m2 tờ bản đồ số 7, tọa lạc xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.

Vị trí khu đất như sau: Phía bắc giáp thửa 1513; phía nam giáp phần còn lại của thửa 1541 cạnh 61,8m, thửa 1556 cạnh 30,3m; phía đông giáp thửa 1583 có cạnh thửa 1556 là 73,3m; phía tây giáp lộ Gò Pháo có cạnh của thửa 1541 là 63,2m và cạnh thửa 1514 là 36,2m.

- Bà Nguyễn Thị cẩm Hồng được tiếp tục sử dụng 8.199m2 tọa lạc xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An có các số thửa 1582 diện tích 4.463m2, thửa 1603 diện tích 2.633m2 và 01 phần thửa 1556 diện tích 365m2 01 phần thửa 1541 diện tích 738m2.

Vị trí khu đất như sau: phía nam giáp thửa 1633; phía bắc giáp phần còn lại của thửa 1541 cạnh 61,8m, thửa 1556 cạnh 30,3m; phía đông giáp thửa 1583 có cạnh của thửa 1603 là 78,9m và cạnh của thửa 1541 là 12,lm; phía tây giáp lộ Gò Pháo có cạnh của thửa 1582 là 78m và cạnh của thửa 1541 là 12,4m.

(Kèm theo bản trích đo bản đồ địa chính đo vẽ ngày 05/12/2012).

-  Ông Bảy, bà Hồng được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Bảy đòi bà Nguyễn Thị Cẩm Hồng 32,5 chỉ vàng 24kara, số tiền 60.000.000 đồng và 8.199m2 đất tại 01 phần thửa 418, 517, 518 và 01 phần các thửa 515, 584 tờ bản đồ số 11 tọa lạc Hưng Điền B, huyện Tân Hưng (số thửa mới 1514, 1541, 1556, 1582 và 1603 tờ bản đồ số 7).

Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí và các chi phí tố tụng.

Bà Hồng có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Kháng nghị số 355/2014/DS-KN ngày 19/9/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2012/DS-ST ngày 05/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng, tỉnh Long An; giao hô sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiếm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Ồng Nguyễn Văn Bảy và bà Nguyễn Thị cẩm Hồng sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1994 đến hết năm 2008. Tài sản mà ông Bảy, bà Hồng tranh chấp trong thời kỳ sống chung gồm 20 chỉ vàng ông Bảy trả nợ riêng cho bà Hồng; 10.000.000 đồng ông Bảy cho bà Hồng để bà Hồng chi tiêu trong thời gian bà Hồng thụ án; bà Hồng cất giữ tài sản do hai người tạo lập gồm 01 đôi bông tai 10 chỉ vàng, 05 chỉ vàng được mua từ nguồn tiền cho thuê đất và 50.000.000 đồng; 18.942m2 đất tại xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng nhận chuyển nhượng của bà Chắc Thị Nhớ với giá 12 chỉ vàng do bà Hồng đứng tên.

Ông Bảy yêu cầu bà Hồng trả 35 chỉ vàng, 60.000.000 đồng và 16.398mđất (đã trừ diện tích đất bà Hồng hiến làm lộ giới). Bà Hồng thừa nhận có các khoản tiền, vàng nêu trên, nhưng cho rằng các khoản tiền, vàng nêu trên ông Bảy tự nguyện cho bà; riêng 05 chỉ vàng mua từ tiền thuê đất thì bà đã chi tiêu cá nhân hết. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định tài sản chung của ông Bảy, bà Hồng có trong thời kỳ sống chung gồm 05 chỉ vàng được mua từ tiền cho thuê đất là có căn cứ (Tòa án cấp sơ thẩm xác định đôi bông tai 10 chỉ vàng là tài sản chung là không đúng).

Đối với diện tích 18.942m2 đất (bao gồm 16.398m2 đất tranh chấp và 2.544m2 đất bà Hồng hiến năm 2006 làm lộ giới) nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hồ Văn Bưu (chết năm 1992) và bà Chắc Thị Nhớ thì ông Bảy cho rằng ông mua bằng tiền riêng của ông (12 chỉ vàng) nhưng ông Bảy không có căn cứ chứng minh; còn bà Hồng thì cho rằng bà là người nhận chuyển nhượng của bà Nhớ với giá 12 chỉ vàng, trong số vàng trả tiền mua đất có 07 chỉ vàng do cô ruột bà là cụ Nguyễn Thị Định cho (cụ Định đã chết), còn lại 05 chỉ vàng do bà và ông Bảy trả cùng trả.

Tại “Giấy sang nhượng thành quả lao động” ngày 03/10/1995 thể hiện bà Nhớ và anh Trần Thanh Phú (người thừa kế) chuyển nhượng 15 công đất (có mô tả tứ cận) cho bà Hồng với giá 12 chỉ vàng; bà Hồng đưa trước 5 chỉ, còn lại 7 chỉ vàng đến cắt lúa đông xuân xong sẽ trả. Việc chuyển nhượng đất trên có hai người làm chứng ký và xác nhận của Ban tự quản ấp Kênh Mới ngày 25/12/1995. Sau đó (không ghi ngày tháng năm), bà Nhớ và anh Phú ký xác nhận đã nhận đủ 12 chỉ vàng.

Như vậy, chưa đủ căn cứ xác định diện tích đất nêu trên do ông Bảy hoặc bà Hồng nhận chuyển nhượng cũng như xác định ông Bảy, bà Hồng có quyền ngang nhau như Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định. Trong trường hợp này, tuy cụ Định, bà Nhớ đều đã chết nhưng Tòa án chưa lấy lời khai của anh Phú và những người làm chứng ký tên trong “Giấy sang nhượng thành quả lao động” và tiến hành đối chất để làm rõ ai là người nhận chuyển nhượng đất; ai là người trả tiền (12 chỉ vàng) trả cho bà Nhớ; ông Bảy, bà Hồng mỗi bên đóng góp bao nhiêu để nhận chuyển nhượng đất. Trên cơ sở đó mới có căn cứ xác định quyền sử dụng đất đang tranh chấp là của ông Bảy hay của bà Hồng; nếu là tài sản chung thì phần đóng góp của mỗi bên là bao nhiêu. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định mỗi bên có V2 quyền sử dụng đất tranh chấp là chưa đủ căn cứ.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị số 355/2014/DS-KN ngày 19/9/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 97/2013/DS-PT ngày 11/4/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Long An và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2012/DS-ST ngày 05/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng, tỉnh Long An về vụ án “Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản và chia tài sản chung” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Bảy với bị đơn là bà Nguyễn Thị Cẩm Hồng; và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 519/2014/DS-GĐT NGÀY 16/12/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN VÀ CHIA TÀI SẢN CHUNG

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án