TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TÒA KINH TẾ

------------------

Quyết định giám đốc thẩm

Số: 01/2006/KDTM-GĐT

Ngày 26 tháng 7 năm 2006

V/v: tranh chấp hợp đồng

mua bán hàng hóa.

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA KINH TẾ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

          Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Hải;

          Các Thẩm phán: Ông Đỗ Cao Thắng;       

                                        Ông Bùi Duy Tiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Nga-Kiểm sát viên.

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Quang.

Ngày 26 tháng 7 năm 2006, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao, đã mở phiên tòa Giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo Quyết định kháng nghị số 08/2008/KN-AKT ngày 31/5/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Quyết định số 27/KDTM-ST ngày 03/01/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I; có trụ sở tại khu phố Khánh Hội, Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, do ông Đặng Hữu Trí đại diện theo ủy quyền của bà Ngô Thị Mai Hoa, chủ doanh nghiệp.

Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đại Dương Quy Nhơn; có trụ sở tại: Lô A22 + B8 khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, do bà Phan Thị Nguyệt, chức vụ Giám đốc làm đại diện.

NHẬN THẤY

Ngày 22/3/2004 giữa Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn (gọi tắt là bên A) và Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I (gọi tắt là bên B) đã ký hợp đồng mua bán sắn lát số 15/ĐD-PNI (BL 191) với nội dung: Bên A bán cho bên B 10.000 tấn ±5% sắn lát khô, đơn giá 1.230.000 đồng tấn, tổng giá trị hợp đồng là: 12.915.000.000 đồng (bao gồm 5% thuế VAT).

Ngày 8/7/2004, hai bên ký hợp đồng mua bán số 02/ĐD-PNI (BL 193) cân đối số tiền và hàng hóa giữa các bên thì Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn còn nợ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền là 6.884.339.243 đồng.

Ngày 30/10/2004, hai bên lập biên bản thỏa thuận với nội dung: Bên B đồng ý cho bên A được trả nợ từng phần số tiền nợ 6.884.339.243 đồng, chậm nhất đến ngày 31/12/2004; bên A phải trả lãi 0,95%/tháng cho toàn bộ số tiền còn nợ (BL 174).

Ngày 31/12/2004 hai bên lập biên bản thỏa thuận (BL 173) với nội dung: Do tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn và bà Phan Thị Nguyệt giám đốc Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn bị tai nạn xe nên Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn xin được gia hạn thanh toán đến hết ngày 31/5/2005.

Ngày 01/8/2005, Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn có văn bản xin khất nợ đến ngày 15/8/2005; đồng ý thế chấp cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I toàn bộ hệ thống nhà xưởng, kho bãi tọa lạc tại lô A22 + B8 khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cùng trang thiết bị của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn (có danh mục đính kèm) để đảm bảo cho việc thanh toán nợ (BL 204) và cam kết nếu đến hạn mà vẫn không có khả năng thanh toán thì chuyển giao quyền khai thác toàn bộ hệ thống nhà xưởng, kho bãi cùng trang thiết bị mà Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn thế chấp cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I.

Ngày 02/8/2005 hai bên đã lập biên bản bàn giao toàn bộ chứng từ nhà xưởng, kho bãi, trang thiết bị của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I (BL 182, 183).

Ngày 28/11/2005 Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I khởi kiện Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn phải trả: 7.618.635.105 đồng hoặc phải chuyển giao quyền khai thác toàn bộ hệ thống nhà xưởng, kho bãi cùng toàn bộ trang thiết bị theo cam kết ngày 01/8/2005.

Ngày 26/12/2005 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định tiến hành hòa giải giữa các đương sự. Các đương sự đã thỏa thuận với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án, nên Tòa án đã lập biên bản hòa giải thành (BL 216).

Ngày 03/01/2006 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định có Quyết dịnh số 27/KDTM-ST công nhận sự thỏa thuận của các đương sự với nội dung:

-   Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn còn nợ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền: 7.618.635.105 đồng; hai bên thống nhất trả nợ như sau:

Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn giao cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I toàn bộ nhà xưởng, thiết bị kho bãi tọa lạc tại lô A22 + B8 khu công nghiệp Phú Tài, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định và quyền sử dụng đất với diện tích 32.990 m2 (theo biên bản thỏa thuận ngày 01/8/2005 và bản liệt kê tài sản kèm theo). Thời hạn giao ngày 03/01/2006. Toàn bộ tài sản và quyền sử dụng đất trên trị giá 6.000.000.000 thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I; số tiền còn lại 1.618.635.105 đồng, Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn có nghĩa vụ phải trả cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền này, thời hạn thanh toán từ ngày 26/12/2005 đến 30/6/2006.

- Mỗi bên chịu ½ án phí (8.654.500 đồng).

Ngày 24/01/2006, ông Nguyễn Khắc Tùng có đơn khiếu nại đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên.

Tại Kháng nghị số 08/2008/KN-AKT ngày 31/5/2006 đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 27/KDTM-ST ngày 03/01/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định:

“Vụ kiện hợp đồng kinh tế giữa bà Nguyệt – Giám đốc Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn và ông Trí – Đại diện Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I nhằm mục đích chuyển nợ cho nhau đối với những tài sản của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn, nhưng những tài sản đó đã được Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum đang thụ lý và giải quyết trong vụ kiện “Chia tài sản sau li hôn” giữa ông Nguyễn Khắc Tùng và bà Phan Thị Nguyệt. Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum đã có ủy thác điều tra và Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã ra quyết định số 08/QĐ-TA ngày 18/4/2005, số 18/QĐ-TA ngày 12/9/2005 về việc đánh giá tài sản tranh chấp. Đến ngày 14/11/2005, Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum đã mở phiên tòa sơ thẩm, tuyên xử những tài sản của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn tại khu công nghiệp Phú Tài cho ông Tùng và ông Tùng có trách nhiệm trả lại tiền cho bà Nguyệt, bản án bị bà Nguyệt kháng cáo, đang chờ xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trong thời gian ông Tùng và bà Nguyệt làm thủ tục ly hôn bà phân chia tài sản thì bà Nguyệt đại diện Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn lại ký biên bản thỏa thuận về việc trả nợ đối với Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I để khấu trừ các khoản nợ mà không có sự tham gia của ông Tùng. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc chuyển nợ bằng tài sản đó của Công ty mà không xem xét đến quyền lợi của ông Tùng đối với tài sản đó là không đúng.

Việc Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như nêu tại phần trên là trái quy định tại Điều 109 Bộ luật tố tụng dân sự “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đương sự tranh chấp”. Hơn nữa, việc chuyển tài sản giữa Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn và Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Tùng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về hình thức và nội dung”.

Với nhận định trên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định kháng nghị với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên và “Đề nghị Hội đồng xét xử Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao căn cứ quy định tại Điều 109, khoản 4 Điều 189, Điều 286, Điều 287, Điều 291 của Bộ luật tố tụng dân sự xử hủy Quyết định số 27/KDTM-ST ngày 03/01/2006 nêu trên giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm”.

Sau khi có kháng nghị nêu trên, ngày 9/6/2006 Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn có đơn khiếu nại cho rằng Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là hoàn toàn không đúng, suy diễn áp đặt trái pháp luật, bởi vì tại thời điểm Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định ra Quyết định số 27/KDTM-ST ngày 03/01/2006, thì giữa bà Nguyệt và ông Tùng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 17/QĐ-TTLH ngày 10/5/2004 của Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum, hai bên đã ký biên bản tự phân chia tài sản tại Phòng Công chứng Nhà nước tỉnh Kon Tum ngày 23/4/2004, chứ không phải trong thời gian làm thủ tục ly hôn như nhận định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; ông Tùng đã rút khỏi thành viên Công ty TNHH Đại Dương Kon Tum, không còn là giám đốc Công ty TNHH Đại Dương Kon Tum. Các tài sản của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn không bị bất cứ cơ quan pháp luật nào ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 109 Bộ luật tố tụng dân sự, nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định không vi phạm Điều 109 Bộ luật tố tụng dân sự khi ra Quyết định nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Hiện nay, Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn đã tự nguyện thi hành án xong. Ông Tùng chỉ là 1 thành viên Công ty với số vốn góp 20% không có quyền hành gì để phản đối. Bà Nguyệt là giám đốc Công ty hoàn toàn chịu trách nhiệm về các quyết định của mình; còn nếu ông Tùng không đồng ý thì chỉ là tranh chấp nội bộ công ty, sẽ là quan hệ pháp luật khác giữa các thành viên công ty với nhau. Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định kháng nghị nêu trên.

Ngày 12/6/2006 Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I có đơn khiếu nại đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao với lý do đây là quan hệ kinh tế giữa hai đơn vị kinh tế với nhau, Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I ký kết HĐKT với Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn, chứ không quan hệ kinh tế với vợ chồng ông Tùng bà Nguyệt, bà Nguyệt là giám đốc Công ty, ông Tùng không có tư cách gì để tham gia vào vụ án này.

Hai bên đã thi hành án xong, không có tranh chấp, đề nghị hủy kháng nghị nêu trên.

Ngày 27/6/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định có công văn số 1504/CV-TA gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao với nội dung: Quyết định số 27/KDTM-ST ngày 03/01/2006 công nhận sự thỏa thuận của các đương sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định là trên cơ sở tự quyết định và tự định đoạt của đương sự; quyết định này là đúng  pháp luật. Hiện nay, các bên đã tự nguyện thi hành án xong. Kháng nghị số 08/KN-AKT ngày 31/5/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là không đúng pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu: Nhận định Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm Điều 109 BLTTDS như nêu tại kháng nghị là không chính xác, cho nên Viện kiểm sát rút phần kháng nghị này, nhưng vẫn giữ nguyên quyết định khác của kháng nghị, vì thấy rằng cùng một tài sản là nhà xưởng, thiết bị, máy móc, quyền sử dụng đất của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn nhưng Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum thì quyết định giao cho ông Nguyễn Khắc Tùng, còn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định thì lại quyết định giao cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I, là không hợp lý. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định, nếu thấy bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum về chia tài sản chung giữa ông Tùng và bà Nguyệt không đúng thì cần phải kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị.

XÉT THẤY

Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Định cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 3502000304 ngày 10/10/2003, đăng ký thay đổi lần thứ nhất ngày 10/4/2006,có vốn điều lệ là 7 tỷ đồng, gồm hai thành viên là:

1- Phan Thị Nguyệt, với số vốn góp 5,6 tỷ đồng, chiếm 80% vốn điều lệ.

2- Nguyễn Khắc Tùng, với số vốn góp 1,4 tỷ đồng, chiếm 20% vốn điều lệ.

Người đại diện theo pháp luật của Công ty là bà Phan Thị Nguyệt –Giám đốc. Ông Tùng và bà Nguyệt là vợ chồng đã ly hôn theo theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 17/QĐ-TTLH ngày 10/5/2004 của Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum, nhưng ông Tùng vẫn là thành viên của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn.

Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn là một pháp nhân, thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Khi Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I khởi kiện Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định chỉ triệu tập Giám đốc Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn là bà Nguyệt tham gia tố tụng với tư cách là đại diện cho bị đơn là đúng theo quy định tại khoản 7 Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Khắc Tùng chỉ là thành viên Công ty nên không thể tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này vì đây là vụ án tranh chấp về kinh doanh, thương mại giữa hai doanh nghiệp.

Khi Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành hòa giải, bà Nguyệt là giám đốc, người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn tham gia là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 184 BLTTDS.

Trong quá trình Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định thụ lý và giải quyết vụ án, không có quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nào theo Điều 109 BLTTDS đối với tài sản đang tranh chấp, nên việc Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định ra Quyết định số 27/KDTM-ST ngày 03/01/2006 công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, là không vi phạm Điều 109 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nêu tại phiên tòa.

Trong vụ án dân sự về chia tài sản chung giữa ông Tùng và bà Nguyệt, Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 45/2005/DS-ST ngày 14/11/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum đã nêu yêu cầu của Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I là đề nghị Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn thực hiện đúng biên bản thanh lý công nợ, trong đó có biên bản thanh lý công nợ ngày 01/10/2004, theo đó Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn nợ Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền là 6.884.339.243 đồng cho các hợp đồng số 02 ngày 8/7/2004 và hợp đồng số 15 ngày 22/3/2004 (Trang 12 bản án dân sự sơ thẩm số 45/2005/DS-ST ngày 14/11/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum). Nhưng, khi xét yêu cầu này của Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I, do ông Trí đại diện bỏ về nên Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum đã nhận định “Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I có quyền khởi kiện Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn bằng một vụ án dân sự khác khi có đủ chứng cứ” (Trang 27 bản án dân sự sơ thẩm số 45/2005/DS-ST ngày 14/11/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum).

Sau đó, ngày 28/11/2005, Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I khởi kiện Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn . Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định tiến hành hòa giải. Việc các bên thỏa thuận với nhau về việc trả nợ: Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn giao toàn bộ các nhà xưởng, thiết bị …và quyền sử dụng đất tại lô A22 + B8 Khu công nghiệp Phú Tài cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I là không vi phạm nguyên tắc hòa giải được quy định tại Điều 180 Bộ luật tố tụng dân sự, không vi phạm những quy định tại Điều 181 BLTTDS, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 7, khoản 1, 2 Điều 41 Luật Doanh nghiệp.

Việc Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum dành quyền khởi kiện bằng vụ án khác cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I đối với Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn, nhưng lại quyết định giao toàn bộ nhà xưởng… và quyền sử dụng đất của Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn tại lô A22 + B8 khu công nghiệp Phú Tài cho ông Nguyễn Khắc Tùng là vi phạm quyền tự định đoạt tài sản của Doanh nghiệp được quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum giữ nguyên quyết định của Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum là sai sót. Vì vậy, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm kiến nghị với ông Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đề nghị ông kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 15/2006/DSPT ngày 27/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 1 Điều 297Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận Kháng nghị số 08/2008/KN-AKT ngày 31/5/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Giữ nguyên Quyết định số 27/KDTM-ST ngày 03/01/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự giữa nguyên đơn là Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I và bị đơn là Công ty TNHH Đại Dương Quy Nhơn .

T/M.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM

THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Bùi Thị Hải

(Đã ký)

Nơi nhận:

- VKSNDTC (Vụ 12);

- TAND tỉnh Bình Định;

- Đ/c C.A Nguyễn Văn Hiện;

- TDS-TANDTC;

- THADS tỉnh Bình Định;

- Các bên đương sự ;

- Lưu:VP, TKT (TANDTC).

 

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm số: 01/2006/KDTM-GĐT ngày 26 tháng 7 năm 2006 về việc tranh chấp hợp đồng

Số hiệu 01/2006/KDTM-GĐT Ngày xét xử 26/07/2006
Bình luận án