TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TÒA KINH TẾ

------------------

Quyết định giám đốc thẩm

Số: 03/2007/KDTM-GĐT

Ngày 31 tháng 7 năm 2007

V/v: tranh chấp hợp đồng

xây dựng

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc

----------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA KINH TẾ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

          Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Huy Tiến;

          Các Thẩm phán: Ông Đỗ Cao Thắng;

                                        Ông Nguyễn Ngọc Vân.

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Mai Thị Thơm, Thẩm tra viên Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Bá Thắng-Kiểm sát viên.

Họp phiên tòa ngày 31 tháng 7 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, để  giám đốc thẩm vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp hợp đồng xây dựng giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty cổ phần kỹ nghệ 3H

Trụ sở tại: số 71 Lý Thái Tổ, thành phố Đà Nẵng

Bị đơn: Hợp tác xã cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng Thanh Châu

Trụ sở tại: Thôn Giáng Nam 2, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Do có Quyết định kháng nghị số 03/2007/KN-KT ngày 28/02/2007 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN THẤY

Ngày 12/7/2005, Công ty cổ phần kỹ nghệ 3H (viết tắt là Công ty 3H) có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, đòi Hợp tác xã cổ phần Sản xuất vật liệu xây dựng Thanh Châu (viết tắt là Hợp tác xã Thanh Châu) thanh toán lãi hợp đồng xây dựng số 04/HĐKT-04 và số 05/HĐKT-04 hai bên ký kết với nhau trong cùng ngày 15/8/2004.

1. Theo trình bày của Nguyên đơn:

Ngày 15/8/2004, Công ty 3H có ký với Hợp tác xã Thanh Châu hai bản hợp đồng về việc cung ứng (số  04/HĐKT-04) và lắp đặt (số 05/HĐKT-04) hệ thống thiết bị lò nung – hầm sấy gạch Tuynel công suất 10 triệu viên/năm.

Thực hiện hợp đồng: Công ty 3H đã hoàn thành nghĩa vụ của mình được quy định tại Điều 1 và Điều 3 của hợp đồng, Hợp tác xã Thanh Châu đã đưa các hạng mục công trình do Công ty 3H thi công vào sản xuất được 8 tháng. Ngược lại, Hợp tác xã Thanh Châu đã không thực hiện đúng cam kết về tạm ứng và thanh toán tiền theo quy định tại Điều 5 của hợp đồng.

Nguyên đơn yêu cầu Tòa án xét xử: Buộc Hợp tác xã Thanh Châu phải thanh toán cho Công ty 3H số tiền 929.678.000 đồng, trong đó tiền nợ gốc là 860.814.000 đồng và tiền lãi trong thời gian 8 tháng theo lãi suất 1%/tháng là 68.864.000 đồng và hoàn tất cá thủ tục thanh lý hợp đồng theo quy định.

2. Theo trình bày của Bị đơn:

Ngày 21/02/2004, Hợp tác xã Thanh Châu có ký với Công ty Ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ mới (Viết tắt là Công ty UDKHKT) hợp đồng số 01 và phụ lục hợp đồng số 02, giao cho Công ty UDKHKT tổng thầu trong việc xây dựng nhà máy gạch Tuynel Thanh Châu tại thôn Giang Nam, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng với tổng giá trị của hợp đồng theo dự toán là 5.130.548.000 đồng. Thực hiện hợp đồng, đến ngày 09/8/2004, Hợp tác xã Thanh Châu đã thanh toán cho Công ty UDKHKT được 3.155.000.000 đồng và 697.433.300 đồng cho Công ty Ngọc Hưng. Cho đến nay, Hợp tác xã Thanh Châu vẫn chưa quyết toán và đối chiếu công nợ với Công ty UDKHKT.

Ngoài ra, Hợp tác xã Thanh Châu có ký với Công ty 3H hai bản hợp đồng  số 04 và 05 cùng ngày 15/8/2004. Việc ký hai bản hợp đồng này là theo yêu cầu của Công ty UDKHKT, để giúp họ vay tiền của Ngân hàng (do đang vay quá nhiều, nên Ngân hàng không cho Công ty UDKHKT vay tiếp nữa). Theo đề nghị của Giám đốc Công ty UDKHKT, Hợp tác xã Thanh Châu có thanh toán một hóa đơn trị giá 400 triệu đồng cho Công ty 3H (thực tế chỉ chi 380 triệu đồng, còn giữ lại 20 triệu đồng), Công ty UDKHKT đồng ý sẽ khấu trừ số tiền này vào tổng giá trị xây lắp của mình. Hợp tác xã Thanh Châu chỉ biết đơn vị thi công là Công ty UDKHKT và hiện nay hai bên chưa tiến hành quyết toán với nhau.

Hợp tác xã Thanh Châu không nghiệm thu khối lượng với Công ty 3H, nên không có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty 3H. Vì vậy, Hợp tác xã Thanh Châu không nợ nần gì với Công ty 3H. Đề nghị Tòa án bác đơn của Công ty 3H.

3. Giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm:

Tại buổi hòa giải ngày 23/8/2005, ông Trần Xuân Thái (cộng tác viên của Công ty 3H tham gia tố tụng theo giấy ủy quyền số 06/GUQ ngày 12/7/2005 của ông Trương Đình – Giám đốc Công ty 3H) vẫn yêu cầu được thanh toán 929.678.000 đồng; Hợp tác xã Thanh Châu vẫn khẳng định không có quan hệ với Công ty 3H và chỉ còn nợ Công ty 3H 20 triệu đồng theo thỏa hóa đơn số 0086606 ngày 20/9/2004 (trị giá 400 triệu đồng, mới chỉ 380.000.000 đồng) và số tiền này cũng chỉ là chi hộ cho Công ty UDKHKT. Tòa án cấp sơ thẩm đã lập Biên bản hòa giải thành và sau đó đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 41/2005/QĐ-KDTM ngày 30/8/2005 với nội dung:

“ Hợp tác xã cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng Thanh Châu xác nhận còn nợ Công ty cổ phần kỹ nghệ 3H số tiền là 20.000.000 đồng. Số tiền này chi hộ cho Công ty Ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ mới.

Thời hạn thanh toán nợ: Chậm nhất đến ngày 23/9/2005  Hợp tác xã cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng Thanh Châu sẽ trả dứt điểm số tiền nợ 20.000.000 đồng cho Công ty cổ phần kỹ nghệ 3H “.

4. Khiếu nại giám đốc thẩm:

Ngày 12/6/2006, Công ty 3H do bà Lê Thị Thu Phương – Chủ tịch Hội đồng quản trị, đại diện theo pháp luật của Công ty 3H ký văn bản khiếu nại gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định số 41/QĐ-KDTM ngày 30/8/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng với lý do: Ông Trần Xuân Thái không đủ tư cách đại diện cho Công ty 3H tham gia tố tụng. Bà Lê Thị Thu Hương – Chủ tịch Hội đồng quản trị và là đại diện theo pháp luật của Công ty 3H đã ủy quyền cho ông Trương Đình – Giám đốc Công ty 3H từ ngày 15/8/2004. Ngày 12/7/2005, ông Trương Đình ủy quyền lại cho ông Trần Xuân Thái nhưng không được sự đồng ý của bà Lê Thị Thu Phương.

5. Kháng nghị giám đốc thẩm:

Ngày 28/01/2007, bằng Quyết định số 03/2007/KN-KT ngày 28/02/2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 41/2005/QĐ-KDTM ngày 30/8/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, yêu cầu Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật với các lý do:

-   Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện đúng quy định về “ủy quyền lại” tại Điều 583 Bộ luật dân sự, nên ông Trần Xuân Thái không đủ tư cách đại diện cho Công ty 3H tham gia tố tụng;

-   Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm khoản 4 Điều 56 BLTTDS khi không đưa Công ty UDKHKT vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

-   Nguyên đơn khởi kiện và vẫn giữ nguyên yêu cầu đòi thanh toán hai hợp đồng với số tiền là 929.678.000 đồng, trong đó nợ gốc là 860.814.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán 8 tháng là 68.864.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm  mới chỉ hòa giải tiền thiếu (20 triệu đồng) khi Hợp tác xã Thanh Châu thanh toán hóa đơn số 0086606 ngày 20/9/2004 cho Công ty 3H, các đương sự chưa thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Tại bản Kết luận số 06/KLGĐT-KDTM ngày 18/4/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 41/2005/QĐ-KDTM ngày 30/8/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng , giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng để xét xử lại.

XÉT THẤY

1.     Về tư cách của người đại diện tham gia tố tụng của Công ty 3H:

Theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 3203000291 ngày 27/5/2004, Công ty 3H có người đại diện theo pháp luật là bà Chủ tịch Hội đồng quản trị Lê Thị Thu Phương.

Để đại diện được cho Công ty 3H trong việc ký kết, thực hiện, thanh lý hợp đồng và giải quyết tranh chấp (nếu xảy ra) với Hợp tác xã Thanh Châu , ông Trương Đình – Giám đốc Công ty 3H được bà Lê Thị Thu Phương ủy quyền bằng văn bản đề ngày 15/8/2004. Trong văn bản ủy quyền này, không có nội dung cho phép ông Trương Đình được ủy quyền lại cho người thứ ba. Trong hồ sơ vụ án cũng không có chứng cứ nào thể hiện bà Lê Thị Thu Phương đồng ý cho ông Trương Đình được ủy quyền lại cho ông Trần Xuân Thái.

Theo quy định tại Điều 588 Bộ luật dân sự năm 1995, giấy ủy quyền số 06/GUQ ngày 12/7/2005 của ông Trương Đình – Giám đốc Công ty 3H cho ông Trần Xuân Thái là không hợp pháp. Tòa án cấp sơ thẩm để cho ông Trần Xuân Thái tham gia tố tụng với tư cách đại diện cho Công ty 3H là không phù hợp với quy định tại khoản 7 Điều 57 BLTTDS.

2. Về sự cần thiết tham gia tố tụng của Công ty UDKHKT:

Theo Hợp tác xã Thanh Châu , toàn bộ công trình do Công ty UDKHKT tổng thầu, Công ty 3H chỉ là một nhà thầu phụ và phải quyết toán với Công ty UDKHKT chứ không được trực tiếp với chủ đầu tư là Hợp tác xã Thanh Châu. Việc Hợp tác xã Thanh Châu trực tiếp ký hợp đồng với Công ty 3H là do Công ty UDKHKT nhờ để giải quyết vấn đề vay vốn của Ngân hàng. Vì vậy, mặc dù ký trực tiếp hợp đồng với Công ty 3H, nhưng Hợp tác xã Thanh Châu chỉ nghiệm thu các hạng mục công trình cho Công ty 3H thi công và thanh toán với bên xây dựng là Công ty UDKHKT chứ không nghiệm thu và thanh toán trực tiếp cho Công ty 3H.

Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 41/2005/QD-KDTM ngày 30/8/2005, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định: “Hợp tác xã cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng Thanh Châu xác nhận còn nợ Công ty cổ phần kỹ nghệ 3H số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Số tiền này chi hộ cho Công ty Ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ mới …”.

Như vậy, việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của Công ty UDKHKT. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án mà không đưa Công ty UDKHKT vào tham gia tố tụng là không đúng với quy định tại đoạn cuối của khoản 4 Điều 56 BLTTSD.

3. Về việc bỏ sót nội dung trong hòa giải:

Tại buổi hòa giải ngày 23/8/2005, Công ty 3H vẫn yêu cầu được thanh toán cả gốc và lãi là 929.678.000 đồng; Hợp tác xã Thanh Châu vẫn khẳng định không có quan hệ với Công ty 3H và chỉ còn nợ Công ty 3H 20 triệu đồng theo hóa đơn số 0086606 ngày 20/9/2004 (hóa đơn trị giá 400 triệu đồng; mới chỉ chi 380.000.000 đồng) và số tiền này cũng chỉ là chi hội cho Công ty UDKHKT. Như vậy, việc nhận nợ của Hợp tác xã Thanh Châu chỉ là một khoản rất nhỏ trong toàn bộ các yêu cầu của Công ty 3H, các đương sự không có sự thỏa thuận nào khác về phần yêu cầu còn lại của vụ án. Với kết quả của phiên hòa giải như vậy mà Tòa án cấp sơ thẩm đã cho lập Biên bản hòa giải thành và sau đó đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 41/2005/QĐ-KDTM ngày 30/8/2005 là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 187 BLTTDS.

Từ những nhận định trên,

Căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,

Hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 41/2005/QĐ-KDTM ngày 30/8/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

CÁC THẨM PHÁN

Đỗ Cao Thắng           Nguyễn Ngọc Vân

(Đã ký)                      (Đã ký)

THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Bùi Huy Tiến

(Đã ký)

 

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm Số: 03/2007/KDTM-GĐT Ngày 31 tháng 7 năm 2007 V/v: tranh chấp hợp đồng xây dựng

Số hiệu 03/2007/KDTM-GĐT Ngày xét xử 31/07/2007
Bình luận án

Tiếng Việt

English