TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TÒA KINH TẾ

------------------

Quyết định giám đốc thẩm

Số: 06/2009/KDTM-GĐT

Ngày 12 tháng 3 năm 2009

V/v: tranh chấp hợp đồng hợp tác

                  kinh doanh

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 

TÒA KINH TẾ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

          Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tiến;

          Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hải;     

                                       Ông Bùi Thế Linh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ngọc Bình-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường.

Ngày 12 tháng 3 năm 2009, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty WAHFAI TRANSPORTATION SUPPLIES LTD; có trụ sở tại Flat A-B, 14/F, block A, Marvel Industrial Building, Kwai Chung, N.T.Hong King; do Nguyễn Thanh Long (đại diện theo giấy ủy quyền ngày 01/12/2006); trú tại 15A/1 Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh;

Bị đơn: Công ty TNHH thương mại và giao nhận hàng hóa Long Mã; có trụ sở tại 325/11A, Quốc lộ 1A, phường An Phú Đông, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh;

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 28/7/2006 của nguyên đơn, các lời khai của đương sự và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thì thấy:

Ngày 8/2/2005, Công ty WAHFAI TRANSPORTATION SUPPLIES LTD (sau đây viết và gọi tắt là Công ty WAHFAI) ký bản thỏa thuận ghi nhớ với Công ty TNHH thương mại và giao nhận hàng hóa Long Mã (sau đây viết và gọi tắt là Công ty TNHH Long Mã) về việc hợp tác kinh doanh xe kéo mooc và phụ tùng xe mooc tại Việt Nam, theo đó lợi nhuận sau khi trừ thuế và tất cả các chi phí cần thiết tại Việt Nam sẽ được chia 50/50 và giá sản phẩm sẽ được nêu trên hóa đơn.

Ngày 13/10/2005, hai bên ký Phụ lục hợp đồng liên kết liên doanh bổ sung một số vấn đề về điều khoản thanh toán, trong đó “ Bên B cam kết thanh toán số tiền bán hàng sau khi trừ chi phí hoạt động, thuế nhập khẩu, cước vận tải biển đến Việt Nam, các phí khác (nếu có) trong thời gian 3 ngày kể từ ngày nhận được tiền của khách hàng”; về nhân sự quản lý và quản lý sản phẩm.

Theo Công ty WAHFAItrình bày thì để thực hiện hợp đồng nêu trên Công ty WAHFAI đã giao 3 đợt hàng cho Công ty TNHH Long Mã bao gồm: 112 chiếc rơ mooc, 56 chiếc trục, 60 chân chống rơ mooc và 1 xe đầu kéo, theo giá ghi trong hợp đồng và các hóa đơn kèm theo có giá trị là 697.918 USD. Công ty TNHH Long Mã đã thanh toán 316.957 USD, còn nợ là 380.961 USD. Sau nhiều lần yêu cầu Công ty TNHH Long Mã thanh toán nhưng không được nên ngày 28/7/2006, Công ty Wahfai có khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH Long Mã phải thanh toán số tiền còn nợ này. Theo phía Công ty TNHH Long Mã trình bày thì Công ty TNHH Long Mã dã thừa nhận về số lượng hàng hóa đã giao nhận và số tiền đã thanh toán như nguyên đơn đã trình bày nhưng Công ty TNHH Long Mã không đồng ý thanh toán theo giá ghi trên mà Công ty Wahfai yêu cầu mà chỉ đồng ý thanh toán theo giá ghi trên tờ khai hàng hóa nhập khẩu với tổng giá trị là 306.000 USD trong khi Công ty TNHH Long Mã đã thanh toán số tiền là 316.957 USD nên không chấp nhận yêu cầu của Công ty WAHFAI.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 1215/2007/KDTM-ST ngày 13/7/2007, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng các Điều 60 và 61 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Viêt Nam năm 1996; các Điều 8, 39 và 43 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế;

-         Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc Công ty TNHH thương mại và giao nhận hàng hóa Long Mã phải có trách nhiệm trả cho Công ty Wahfai transportation supplies Ltd. số tiền hàng chưa được thanh toán mà các bên đã giao dịch theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 08/02/2005 giữa 2 bên là 380.961 USD (ba trăm tám mươi ngàn chín trăm sáu mươi mốt đô la Mỹ).

Thời hạn thanh toán; trong vòng 6 tháng kể từ ngày có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Ngày 24/7/2007, Công ty TNHH Long Mã có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại quyết định số 132/2007/QĐPT-KDTM ngày 14/12/2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án khinh doanh, thương mại, với lý do người kháng cáo được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt theo khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 19/6/2008, Công ty TNHH Long Mã có đơn khiếu nại đề nghị giám đốc thẩm.

Tại quyết định kháng nghị số 21/KN-VKSTC-V12 ngày 18/12/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án sơ thẩm số 1215/2007/KDTM-ST ngày 13/7/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm nêu trên; giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định chung của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị và hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Trong hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp cho Tòa án cấp sơ thẩm (đặc biệt là các tài liệu, chứng cứ quan trọng như Bản thỏa thuận ghi nhớ, Phụ lục hợp đồng liên kết liên doanh, Hợp đồng mua và các hóa đơn, các Tờ khai hàng hóa nhập khẩu tại hải quan, các Bảng kê tổng hợp chi phí Trailer, các báo cáo…) đều là các bản sao nhưng không có công chứng, chứng thực hợp pháp theo quy định tại tại khoản 1 Điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự và và tiểu mục 2.1 mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng minh và chứng cứ”.

Trong các tài liệu, chứng cứ neu trên có nhiều tài liệu, chứng cứ bằng tiếng nước ngoài (tiếng Anh) tuy được dịch sang tiếng Việt nhưng không có công chứng, chứng thực hợp pháp, thậm chí có tài liệu, chứng cứ chưa được dịch sang tiếng Việt theo quy định tại khoản 3 Điều 84 Bộ luật tố tụng dân sự và mục 3 phần II Nghị quyết số 04 nêu trên.

Việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận và căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ nêu trên của các đương sự để giải quyết vụ án là không đúng pháp luật, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng mà hai bên ký kết là hợp đồng hợp tác kinh doanh bị vô hiệu toàn bộ là có căn cứ, đúng pháp luật; Đồng thời áp dụng khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 để xử lý hợp đồng vô hiệu là chính xác. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty TNHH Long Mã phải trả cho Công ty WahFai 380.961 USD là không phù hợp với thực tế mà hai bên đã thỏa thuận tại Phụ lục hợp đồng liên kết liên doanh ngày 13/10/2005 về điều khoản thanh toán: “Bên B cam kết thanh toán số tiền bán hàng sau khi trừ đi chi phí hoạt động, thuế nhập khẩu, cước vận tải biển đến Việt Nam, các chi phí khác (nếu có)…”.

Thực tế thì Công ty TNHH Long Mã đã có những khoản chi cho việc thực hiện kinh doanh như thỏa thuận nêu trên và việc kinh doanh này bị lỗ theo như bảng kê và báo cáo của Công ty TNHH Long Mã mà Công ty WahFai cũng đã nêu tại Bản trình bày quan điểm của mình (nguyên đơn) ngày 11/7/2007 (BL 68-87). Do vậy, cần phải xác minh làm rõ những khoản chi mà Công ty TNHH Long Mã bỏ ra để tính đối trừ rồi thanh toán như thỏa thuận của hai bên nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của đương sự.

Vì các lẽ trên;

 Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

1.     Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 1215/2007/KDTM-ST ngày 13/7/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ;

2.     Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

 

CÁC THẨM PHÁN

                                   Bùi Thị Hải               Bùi Thế Linh                 

                                        (Đã ký)                      (Đã ký)

THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Nguyễn Văn Tiến            

(Đã ký)

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm số: 06/2009/KDTM-GĐT ngày 12 tháng 3 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh

Số hiệu 06/2009/KDTM-GĐT Ngày xét xử 12/03/2009
Bình luận án

Tiếng Việt

English