TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TÒA KINH TẾ

------------------

Quyết định giám đốc thẩm

Số: 08/2009/KDTM-GĐT

Ngày 30 tháng 3 năm 2009

V/v: tranh chấp hợp đồng tín dụng

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 

TÒA KINH TẾ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

          Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Linh ;

          Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hải;     

                                        Ông Nguyễn Văn Tiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Nga-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường.

Ngày 30 tháng 3 năm 2009, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại  theo Kháng nghị số 04/KN-VKSTC-V12 ngày 25/02/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Quyết định kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2007/KDTM-ST ngày 10/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị; có trụ sở tại số 24 Hùng Vương, thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị;

Bị đơn: Công ty công trình 86; có trụ sở tại số 246 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh;

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 08/11/2007 và các tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị xuất trình thì từ tháng 11/2003, Ngân hàng trên đã cho Công ty công trình 86 vay theo 09 hợp đồng tín dụng trung và dài hạn với tổng số tiền được giải ngân là 10.200.000.000 đồng. Công ty công trình 86 đã trả được 2.387.714.700 đồng nợ gốc. Tính đến ngày 08/11/2007, Công ty công trình 86 còn nợ Ngân hàng là 13.934.253.879 đồng, trong đó nợ gốc là 7.812.285.300 đồng và nợ 6.121.968.579 đồng (lãi vay trong hạn là 987.833.333 đồng, lãi quá hạn là 5.134.135.256 đồng).

Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu Công ty công trình 86 thanh toán nhưng Công ty này không có thiện chí thanh toán nên Ngân hàng phải  khởi kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị với yêu cầu buộc Công ty công trình 86 thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ trên cho Ngân hàng.

Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị thụ lý vụ án và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị đã có đơn xin rút đơn khởi kiện và có đơn xin miễn toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 20.467.000 đồng.

Tại Quyết định kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2007/QĐST-KDTM ngày 10/12/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định: “Đình chỉ vụ án dân sự thụ lý số 09/2007/TLST-KDTM ngày 12/11/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị … Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị được miễn toàn bộ án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí là 20.467.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 019838 ngày 09/11/2007 của Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị”.

Ngày 17/11/2008, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị có Văn bản số 685/VKS-P5 gửi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định sơ thẩm nêu trên với lý do Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã áp dụng không đúng pháp luật trong việc miễn án phí cho đương sự.

Tại Quyết định kháng nghị số 04/KN-VKSTC-V12 ngày 25/02/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Quyết định số 01/2007/QĐST-KD ngày 10/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị với lý do như sau” Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị căn cứ điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự để đình chỉ giải quyết vụ kiện là đúng. Sau khi dẫn quy định tại khoản 2 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự về án phí, Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án và quy định tại mục 1 phần IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho rằng trong trường hợp trên, đương sự không được miễn án phí. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị miễn án phí cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị là không đúng và làm thiệt hại cho Nhà nước từ nguồn thu về án phí. Từ đó, kháng nghị đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định số 01/2007/QĐST-KDTM ngày 10/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị để giải quyết lại phần án phí từ trình tự sơ thẩm, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì ngày 08/11/2007, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị đã có đơn khởi kiện đối với Công ty công trình 86 về việc yêu cầu Công ty này phải thanh toán 13.934.253.879 đồng, bao gồm nợ gốc, nợ lãi trong hạn và nợ lãi quá hạn phát sinh từ 09 hợp đồng tín dụng trung và dài hạn. Ngày 09/11/2007, Ngân hàng đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 20.467.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 019838. Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị thụ lý và giải quyết vụ án thì ngày 07/12/2007, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị có đơn xin rút đơn khởi kiện với lý do Công ty công trình 86 còn nợ nhiều chi nhánh trong Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị nên cần thiết phải khởi kiện Công ty này tại một Tòa án, đồng thời có đơn xin được miễn án phí đề ngày 07/12/2007.

Xét thấy việc Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị căn cứ điểm c khoản 1 Điều 192 và Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự để ra Quyết định số 01/2007/QĐST-KDTM ngày 10/12/2007 đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại nêu trên là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì “Trong trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước”. Tại mục 1 phần IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã quy định: “…Đối với những vấn đề chưa được quy định tại chương IX của Bộ luật tố tụng dân sự, thì trong thời gian chưa có quy định cụ thể của cơ quan có thẩm quyền, các vấn đề đó về án phí, lệ phí vẫn được thực hiện theo Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án…”. Theo quy định tại Chương IV của Nghị định số 70/CP nêu trên thì “người đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm…thì được trả lại 50% số tiền tạm ứng án phí đã nộp”. Như vậy, việc Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị miễn án phí và hoàn trả tiền tạm ứng án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm là 20.467.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 019838 ngày 09/11/2007 của Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị là không đúng quy định của pháp luật, làm thiệt hại cho Nhà nước từ nguồn thu về án phí. Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ và cần thiết. 

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 2 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

1.     Hủy Quyết định kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2007/QĐST-KDTM ngày 10/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về phần “ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị được miễn toàn bộ án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí là 20.467.000 đồng theo biên lai thu tiền số 019838 ngày 09/11/2007 của Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị”.

2.     Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị dể giải quyết lại phần án phí nêu trên theo đúng quy định của pháp luật.

CÁC THẨM PHÁN

Nguyễn Văn Tiến        Bùi Thị Hải

                                        (Đã ký)                      (Đã ký)

THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Bùi Thế Linh  

(Đã ký)

 

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm số: 08/2009/KDTM-GĐT ngày 30 tháng 3 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu 08/2009/KDTM-GĐT Ngày xét xử 30/03/2009
Bình luận án

Tiếng Việt

English