TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1 THÀNH PHỐ HCM

Bản án số: 69/2011/LĐ-ST Ngày: 29/8/2011 Vụ án:Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1 – THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Ông Tôn Trung Tâm - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Ông Trần Nguyên Tú  - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Trần Thị Ngọc Phương  - Hội thẩm nhân dân

Bà Đỗ Thị Thu T – Cán bộ Tòa án nhân dân Quận 1, Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Ngày 29 tháng 8 năm 2011, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 69/2010/TLST-LĐ ngày 25/10/2010 về “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 307/2011/QĐST-LĐ ngày 02/8/2011 và Quyết định hoãn phiên tòa số 127/QĐST-LĐ ngày 16/8/2011, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

Ông NĐ_Trịnh Thái Duy, sinh năm 1971

Địa chỉ: E9/5C NHT, khu phố 5, phường TT, huyện BC, Thành phố HCM. (Có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông NHB - Luật sư thuộc

Văn phòng luật sư YKVN, Đoàn luật sư Thành phố HCM. (Có mặt)

BỊ ĐƠN:

BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á

Địa chỉ: 22 quốc lộ M, khu phố, phường HBP, quận 1, Thành phố HCM.

- Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Vũ quang Đăng, sinh năm 1984, chức vụ: Nhân viên - là người đại diện theo ủy quyền ( văn bản ủy quyền ngày 16/8/2011). (Có mặt)

NGƯỜI LÀM CHỨNG:

1. Ông Lê Thanh Tùng; sinh năm 1983

Địa chỉ: 29/6B NHT, thị trấn TT, huyện BC, Thành phố HCM. (Có mặt)

2. Bà Đỗ Thị Thanh Tâm, sinh năm 1990

Địa chỉ: 030C ấp Đông Ba, xã BH, huyện TA, tỉnh BD. (Có mặt) 3. Ông Lê Văn Thanh; sinh năm 1977

Địa chỉ: C13/12 ấp 3, thị trấn TT, huyện BC, Thành phố HCM. (Vắng mặt) 3.4. Ông Lê Anh Tuấn; sinh năm 1979

Địa chỉ: Bình Giang 1, phường SG, thị xã PL, tỉnh BP. (Vắng mặt)

NHẬN THẤY:

+ Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn ông NĐ_Trịnh Thái Duy: BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á (gọi tắt là Công ty) ký hợp đồng lao động với ông, thời hạn hợp đồng 12 tháng, từ ngày 29/4/2010 đến ngày 29/4/2011, mức lương hợp đồng là 7.500.000 đồng. Ông làm việc được 04 tháng thì Công ty đã ra quyết định giảm biên chế cho ông nghỉ việc và bồi thường cho ông 01 tháng lương với số tiền 1.058.400 đồng. Vì Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với ông nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc công ty bồi thường cho ông 02 tháng lương là 15.000.000 đồng và những ngày không được làm việc từ ngày 01/9/2010 đến khi kết thúc hợp đồng (ngày 29/4/2011) là 08 tháng; và 01 khoản tiền bồi thường 15.000.000 đồng để ông tìm việc khác. Buộc Công ty trả cho ông khoản tiền còn giữ lại của ông mỗi tháng 1.200.000 đồng trong 3 tháng là 3.600.000 đồng.

+ Đại diện theo ủy quyền của BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á – ông Hoàng Văn Lâm trình bày: Công ty ký hợp đồng lao động với ông NĐ_Duy thời hạn hợp đồng 12 tháng, từ ngày 01/5/2010 đến 30/4/2011, với mức lương 1.058.400 đồng, không có phụ cấp, mức lương thực lãnh của ông NĐ_Duy là 7.500.000 đồng. Công ty không cho ông NĐ_Duy nghỉ việc mà có Quyết định điều động ngày 30/8/2009, điều động ông NĐ_Duy sang nơi khác làm việc từ ngày 03/9/2010, nhưng ông NĐ_Duy không đồng ý nên tự ý nghỉ việc. Đối với các yêu cầu của ông NĐ_Duy Công ty không đồng ý, chỉ xác nhận tiền lương chưa thanh toán là 3.600.000 đồng.

+ Người làm chứng bà Đỗ Thị Thanh Tâm khai rằng bà trực tiếp nhận bản fax từ Công ty để giao lại cho ông NĐ_Duy; ông Lê Thanh Tùng (người cùng bị giảm biên chế trong cùng quyết định) khai ông và ông NĐ_Duy cùng nhận bản fax quyết định giảm biên chế do bà Tâm giao; ông Lê Văn Thanh, ông Lê Văn Tuấn khai có thấy quyết định là một bản fax do bà Tâm giao cho ông NĐ_Duy.

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông NĐ_Trịnh Thái Duy giữ yêu cầu khởi kiện, đề nghị buộc Công ty bồi thường 02 tháng lương 7.500.000 đồng/tháng x 2 = 15.000.000 đồng vì Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, bồi thường tiền lương do những ngày không được làm việc từ 01/9/2010 đến ngày xét xử (29/8/2011) là 76.000.000 đồng; trả lại cho nguyên đơn số tiền Công ty còn giữ là 3.600.000 đồng; trả lại sổ bảo hiểm; buộc Công ty nhận lại làm việc, nếu không nhận lại thì bồi thường nguyên đơn 01 tháng tiền lương 7.500.000 đồng. Bị đơn Công ty không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, cho rằng Công ty chỉ điều động nguyên đơn chứ không chấm dứt hợp đồng, chỉ đồng ý trả lại cho nguyên đơn số tiền 3.600.000 đồng và tự nguyện hỗ trợ cho nguyên đơn 02 tháng lương 1.058.4000 đồng/tháng là 2.116.800 đồng.

XÉT THẤY:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Tranh chấp giữa nguyên đơn ông NĐ_Trịnh Thái Duy và bị đơn BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á là tranh chấp về việc đơn phướng chấm dứt hợp đồng lao động; Vì vậy tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận 1 theo Điểm a Khoản 1 Điều 31, Điểm c Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Theo nguyên đơn ngày 30/8/2010, Công ty có quyết định giảm biên chế đối với ông, ngày 18/10/2010 nguyên đơn khởi kiện, căn cứ Điều 167 Bộ luật lao động, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn khởi kiện trong thời hiệu. Tòa án nhân dân quận 1 thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Về quan hệ tranh chấp giữa các bên:

- Ông NĐ_Trịnh Thái Duy bắt đầu làm việc cho Công ty từ ngày 29/4/2010, giữa ông và Công ty ký 01 thỏa thuận lao động ngày 29/4/2010 và 01 hợp đồng lao động ngày 01/5/2010, thời hạn 12 tháng, ông NĐ_Duy làm việc liên tục được 04 tháng cho đến khi xảy ra tranh chấp vào ngày 30/8/2010. Căn cứ Khoản 1 Điều 27 Bộ luật Lao động, hợp đồng lao động thuộc loại xác định thời hạn.

Theo ông NĐ_Duy, ngày 30/8/2010, Công ty có Quyết định giảm biên chế không cho ông tiếp tục làm việc. Chứng cứ ông NĐ_Duy đưa ra là Quyết định giảm biên chế ngày 30/8/2010 do Giám đốc Công ty ký tên và đóng dấu Công ty. Tuy nhiên theo ông, ông chỉ nhận được bản fax do Quản lý xưởng là bà Đỗ Thị Thanh Tâm giao và không có bản chính; ông yêu cầu triệu tập những người làm chứng gồm bà Tâm, ông Lê Thanh Tùng (người cùng bị giảm biên chế trong cùng quyết định), ông Lê Văn Thanh, ông Lê Văn Tuấn để xác nhận việc Công ty có quyết định giảm biên chế đối với ông. Phía Công ty khẳng định không có ra Quyết định này mà chỉ có Quyết định điều động ngày 30/8/2010 và công ty đã nộp bản chính quyết định điều động cho tòa. Về Quyết định điều động của Công ty, ông NĐ_Duy xác nhận khoảng một tuần sau khi có Quyết định giảm biên chế, công ty có đưa ông Quyết định điều động đi nơi khác làm việc nhưng mức lương giảm xuống còn 2.500.000 đồng nên ông không đồng ý. Quyết định điều động mà Công ty giao nộp cho Tòa cũng không đúng Quyết định điều động mà ông được giao, tuy nhiên ông NĐ_Duy không nộp cho tòa quyết định điều động với lý do khi đó ông không đồng ý nên chỉ xem mà không nhận.

Vì Công ty không thừa nhận chứng cứ do ông NĐ_Duy đưa ra là Quyết định giảm biên chế là của Công ty, nên căn cứ Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự, ông NĐ_Duy phải có nghĩa vụ chứng minh. Hội đồng xét xử xem xét Quyết định giảm biên chế mà ông NĐ_Duy giao nộp, đây là bản phô tô. Người làm chứng Đỗ Thị Thanh Tâm khai rằng bà trực tiếp nhận bản fax từ Công ty để giao lại cho ông NĐ_Duy; ông Lê Thanh Tùng (người cùng bị giảm biên chế trong cùng quyết định) khai ông và ông NĐ_Duy cùng nhận bản fax do bà Tâm giao; ông Lê Văn Thanh, ông Lê Văn Tuấn khai có thấy quyết định là một bản fax do bà Tâm giao cho ông NĐ_Duy. Tất cả những người làm chứng (đã nghỉ việc tại công ty) đều khai

thống nhất Quyết định giảm biên chế giao cho NĐ_Duy là bản fax, tuy nhiên Quyết định giảm biên chế mà ông NĐ_Duy giao nộp cho tòa đã được đối chiếu với bản gốc ông NĐ_Duy lưu giữ thể hiện đây là bản in, được photo lại, không phải là bản fax. Mặt khác tại phiên tòa, ông NĐ_Duy thừa nhận quyết định ông NĐ_Duy giao nộp cho Tòa không phải là bản ông nhận từ bà Tâm; bản ông nhận đã đưa cho một nhân viên công ty, nhân viên này đã làm mất và giao cho ông 01 bản khác. Tại phiên tòa bà Tâm khai quyết định bà giao cho ông NĐ_Duy ghi ngày 28/8/2010 chứ không phải ngày 30/8/2010 như ông NĐ_Duy giao nộp.

Vì lời khai của người làm chứng về chứng cứ không phù hợp với chứng cứ của ông NĐ_Duy giao nộp, và chứng cứ ông NĐ_Duy giao nộp không phải quyết định ông nhận từ phía Công ty, nên không có cơ sở để chấp nhận chứng cứ ông NĐ_Duy đưa ra. Ông NĐ_Duy không chứng minh được Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông.

Xét yêu cầu của ông NĐ_Duy về việc buộc công ty bồi thường cho ông 02 tháng lương là 15.000.000 đồng và những ngày không được làm việc từ ngày 01/9/2010 đến khi tòa án xét xử; 01 khoản tiền bồi thường 7.500.000 đồng để ông tìm việc khác nếu công ty không tiếp tục nhận ông vào làm việc: Vì ông NĐ_Duy không chứng minh được Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với ông nên yêu cầu của ông không có cơ sở để chấp nhận. Về yêu cầu của ông NĐ_Duy về việc buộc Công ty đóng bảo hiểm đầy đủ và trả sổ bảo hiểm lại cho ông, vì yêu cầu trả sổ bảo hiểm lại cho ông NĐ_Duy là chính đáng, ông NĐ_Duy làm việc đến ngày 30/8/2010, nên cần buộc Công ty thực hiện việc đóng đủ bảo hiểm xã hội cho ông NĐ_Duy từ ngày 01/5/2010 đến ngày 30/8/2010 và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông NĐ_Duy. Về tiền lương để tính đóng bảo hiểm căn cứ vào hợp đồng lao động được hai bên ký kết với mức lương 1.058.400 đồng/tháng.

Vì ông NĐ_Duy làm việc cho Công ty chưa đủ 12 tháng nên căn cứ Khoản 1 điều 42 Bộ luật lao động, Công ty không có trách nhiệm trợ cấp thôi việc cho ông NĐ_Duy.

Tại phiên tòa, phía Công ty tự nguyện hỗ trợ cho ông NĐ_Duy 02 tháng lương theo mức lương cơ bản của hợp đồng là 1.058.400 đồng/tháng x 2 = 2.116.800 đồng. Xét thấy ý kiến này là không trái pháp luật, đạo đức xã hội và có lợi cho nguyên đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với Quyết định điều động, ông NĐ_Duy không thừa nhận Quyết định điều động Công ty giao nộp tại tòa, ông chỉ yêu cầu tòa xem xét việc chấm dứt hợp đồng bằng Quyết định giảm biên chế, nên Tòa không xem xét về quyết định điều động. Phía Công ty cho rằng ông NĐ_Duy tự ý nghỉ việc, nhưng không có yêu cầu gì nên Tòa không xét.

Xét yêu cầu của ông NĐ_Duy về việc buộc Công ty trả cho ông số tiền 3.600.000 đồng là tiền lương Công ty còn giữ lại. Phía Công ty xác nhận có giữ ông NĐ_Duy số tiền này. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu của ông NĐ_Duy, buộc Công ty trả cho ông NĐ_Duy 3.600.000 đồng.

Vậy, các Khoản bị đơn Công ty phải chi trả cho nguyên đơn tổng cộng là 5.716.800 đồng.

Về án phí lao động sơ thẩm:

Nguyên đơn ông NĐ_Trịnh Thái Duy không phải chịu án phí lao động sơ thẩm.

Bị đơn BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á phải chịu án phí lao động sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

- Căn cứ Khoản 1 Điều 31; Điểm c Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 79, Điều 80, Điều 131; Điều 159; Điều 245 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

-  Căn cứ Điều 26, Khoản 1 Điều 42; Điều 167 Bộ luật lao động;

-  Căn cứ Điều 305 Bộ luật dân sự;

-   Căn cứ Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Tòa án;

-  Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn ông NĐ_Trịnh Thái Duy:

Buộc BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á trả cho ông NĐ_Trịnh Thái Duy tiền lương còn thiếu 3.600.000 (Ba triệu sáu trăm ngàn) đồng.

Buộc BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á phải thực hiện việc đóng bảo hiểm xã hội và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ ngày 01/5/2010 đến 30/8/2010 cho ông NĐ_Trịnh Thái Duy và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông NĐ_Duy theo quy định của pháp luật.

Ghi nhận BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á tự nguyên hổ trợ cho ông NĐ_Trịnh Thái Duy 02 tháng lương cơ bản tổng cộng là 2.116.800 (Hai triệu một trăm mười sáu ngàn tám trăm) đồng.

Kể từ ngày có đơn xin thi hành án của ông NĐ_Trịnh Thái Duy, nếu BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á chưa trả tiền, thì BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á phải trả lãi của số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời Điểm thanh toán.

2.  Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông NĐ_Trịnh Thái Duy về việc buộc BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á bồi thường cho ông 02 tháng lương là 15.000.000 đồng; lương trong thời gian không được làm việc từ ngày 01/9/2010 đến ngày 29/8/2011 là 78.500.000 đồng; khoản tiền bồi thường 7.500.000 đồng để ông tìm việc khác.

3.   Án phí lao động sơ thẩm:

Ông NĐ_Trịnh Thái Duy không phải chịu án phí lao động sơ thẩm.

BĐ_Công ty TNHH Tân Việt Á phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí lao động sơ thẩm.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hánh án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

 

 

 

Tên bản án

Bản án số: 69/2011/LĐ-ST Ngày: 29/8/2011 Vụ án: “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English