QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 103/2014/DS-GĐT NGÀY 05/03/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TOÀ DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 05 tháng 3 năm 2014, tại trụ sở Cơ quan thường trực của Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam, mở phiên tòa giám đốc thấm xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phan Văn Nờ, sinh năm: 1952

Địa chỉ: số 393 ấp Tân Thạnh, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Ông Cao Phước Lớn, sinh năm: 1934

Địa chỉ: số 392 ấp Tân Thạnh, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Cao Phước Nhỏ, sinh năm 1979

2. Chị Văn Thị Mỹ Hạnh, sinh năm 1979

Địa chỉ: số 392 ấp Tân Thạnh, xâ An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

NHẬN THẤY

Nguyên đơn ông Phan Văn Nờ trình bày:

Nguồn gốc phân đất tranh chấp với ông Cao Phước Lớn là của cha mẹ ông là cụ Phan Văn Tạc và cụ Đinh Thị Thé để lại cho ông thừa hưởng toàn bộ, ông đã được ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp quyền sử dụng đất vào năm 2001 và được cấp đổi lại vào năm 2007 với diện tích 3.132m2. Gia đình ông Cao Phước Lớn sử dụng phân đất tranh chấp là do cha mẹ ông cho ở nhò' từ trước năm 1975. Vào năm 2009, đất ông Cao Phước Lớn bị quy hoạch giải tỏa để mở rộng đường liên xã, ông Lớn chỉ được nhận phân bồi thường kiến trúc và hoa màu, còn đất là của của ông (ông chưa nhận tiên bồi thường đất do đang tranh chấp). Sau quy hoạch gia đình ông Lớn cât lại nhà trên phần đất của ông mà không hỏi ý kiến của ông. Do ông Cao Phước Lớn là anh re của ông nên ông đồng ý cho gia đình ông Cao Phước Lớn được tiếp tục sử dụng phần đất có chiều ngang 5,7m, chiều dài 15,5m, ngoài diện tích này ông Cao Phước Lớn phải di dời toàn bộ tài sản trả lại đất cho ông. Riêng phần đất có ngôi mộ của bà Phan Thị Nuôi thì ông không tranh chấp.

Bị đơn ông Cao Phuóe Lón trình bày:

Phần đất tranh chấp là của gia đình ông đã sử dụng từ năm 1964 có nguồn gổc là của cha mẹ vợ là cụ Phan Văn Tạc và cụ Đinh Thị Thé cho nhưng không làm giấy tờ. Diện tích cho ban đầu có chiều ngang là 12m, chiều dài là 40m, gia đình ông đã cất nhà, trông cây và ở ổn định đến nay, phía sau đất có ao nuôi cá. Năm 2009, nhà nước có quy hoặc một phần đất để làm đường, ông đã nhận tiền bồi thường kiến trúc và hoa màu. Gia đình ông đã ở ôn định lâu dài nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Nờ.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Vợ chồng anh Cao Phuóc Nhỏ và chị Văn Thị Mỹ Hạnh trình bày:

Thống nhất với lời khai của ông Cao Phước Lớn.

Ông Phan Văn Quân, bà Phan Kim Nhung trình bày: Đẩt của cha mẹ để lại các anh chị em đã đồng ý để cho ông Phan Văn Nò' thừa hưởng. Đề nghị ông Cao Phước Lớn trả đất cho ông Phan Văn Nờ.

QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

Tại bản án sơ thẩm số 25/2010/DS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2010, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp đã tuyên xử:

Chấp nhận sự từ nguyện của ông Phan Văn Nò' cho ông Cao Phước Lơn và anh Cao Phước Nhỏ được sử dụng phần đất có chiều ngang 5,7m X 15, 5m, đo đạc thực tể là 87,7m2 hiện do ông Phan Văn Nò' đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đât.

Không chấp nhận yêu cầu của ông Cao Phước Lớn về việc yêu cầu ông Phan Văn Nờ giao cho ông Lớn phần đất có diện tích chiều ngang 12m X 40m hiện do ông Phan Văn Nò' đúng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Buộc ông Cao Phước Lớn, anh Cao Văn Nhò, chị Văn Thị Mỹ Hạnh liên đới tháo dỡ các chướng ngại vật trên phần đất trống còn lạicó diện tích 217,7m2 đất trả lại cho ông Phan Văn Nò đê sử dụng.

Ông Phan Văn Nờ phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông Cao Phước Lớn các loại cây trồng với sổ tiền 3.940.000 đồng.

Ông Cao Phước Lớn, ông Phan Văn Nò, anh Cao Phước Nhỏ có trách nhiệm đến cơ quan Nhà nước có thấm quyền đê làm thủ tục kê khai điều chỉnh lại diện tích đất sử dụng thực tế.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thấm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án, quyền kháng cáo, quyền thi hành án và thời hiệu thi hành án của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.

Ông Cao Phước Lớn kháng cáo không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sụ phúc thầm số 07/2011/DS-PT ngày 11/01/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, quyết định:

- Không chấp nhận kháng cáo của ông Cao Phước Lớn.

- Giữ nguyên bản án sơ thẩm

Ngoài ra, Tòa án còn quyết định phần án phí và trách nhiệm thi hành án theo luật định.

Ngày 05 tháng 05 năm 2011, ông Cao Phước Lón khiếu nại không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm với lý do: Phần đất tranh chấp gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1964 cho đến nay, việc cấp đất cho ông Nờ là không đúng thủ tục theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định kháng nghị số 152/2013/KN-DS ngày 19/12/2013, Viện trưởng viện kiếm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thâm nêu trên.

Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đổc thấm hủy Bản án dân sự sơ thẩm và Bản án dân sự phúc thâm nêu trên, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

Lý do:

Phần đất tranh chấp theo ông Cao Phước Lón khai đã đuực cụ Tạc và cụ Thé cho từ năm 1964, gia đình ông Cao Phước lớn đã sử dụng và trồng cây trên đât từ đó cho đến nay, ông Nờ kê khai và được cấp quyền sử dụng đất trong kill gia đình ông Cao Phước Lớn đang sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thấm cần xem xét hiện trạng phần đất gia đình ông Lón sử dụng trước khi bị giải tỏa, trừ phân đât giải toả theo hiện trạng, phần còn lại phải công nhận cho gia đình ông Lớn được sử dụng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đe nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Phần đất tranh chấp có diện tích 480m2 là một phần thửa số 64, tờ bản đồ số 49 có tổng diện tích 3.132m2 hiện do ông Phan văn Nờ đứng tên trên giấy chứng nhận quyên sử dụng đât. Trên phần đất tranh chấp có nhà của ông Cao Phước Lớn và nhà của anh Cao Phước Nhỏ (con ông Lớn) cùng một số cây trồng của ông Lớn.

Nguồn gốc toàn bộ thửa đất số 64 là của vợ chồng cụ Phan Văn Tạc (chết năm 1995) và cụ Đinh Thị Thé (chết năm 1999) để lại. Cụ Phan Văn Tạc và cụ Đinh Thị Thé có 04 người con chung gồm:

1. Bà Phan Thị Nuôi (chết năm 2004) - vợ ông Cao Phước Lớn

2.Ông Phan Văn Ọuân

3. Bà Phan Kim Nhung

4. Ông Phan Văn Nờ

Khi còn sống hai cụ đã chia quyền sử dụng đất cho bà Nuôi, ông Quân và bà Nhung mỗi người 02 công đất ruộng. Phần đất còn lại hai cụ sử dụng và cho vợ chồng bà Phan Thị Nuôi, ông Cao Phước Lớn sử dụng một phần, có cất nhà và trồng cây trên đất. Năm 1991, cụ Tạc kê khai và được cấp quyền sử dụng phần đất có diện tích 5.857m2 (Bao gồm cả diện tích nhà đất vợ chồng bà Nuôi, ông Lớn đang sử dụng), ông Phan Văn Nò sống chung với hai cụ từ nhỏ cho đến khi hai cụ qua đời.

Sau khi hai cụ chết, ngày 29/11/1999, ông Quân, bà Nuôi, bà Nhung ký giấy tương phân đồng ý cho ông Nờ được quyền sử dụng 5.857m2 đất của ông Tạc, bà Thé. Năm 2001 ông Nò' được cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2007 ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp đôi lại giấy chúng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nờ với diện tích đất còn lại 3.132m2. Như vậy, mặc dù ông Cao Phước Lớn khai phần đất tranh chấp là do cụ Tạc và cụ Thé cho từ năm 1964, việc cho đất không có giấy tờ nhung thực tế gia đình ông Cao Phước Lớn đã cất nhà và sinh sống trên đất từ trước năm 1975. Vào năm 1991, cụ Tạc được cấp quyền sử dụng đất cùng không yêu cầu gia đình ông Cao Phước Lón trả lại đất cho đến trước khi chết cụ Tạc và cụ Thé cũng không yêu cầu gia đình ông Cao Phước Lớn trả đất cũng như không lập di chúc. Năm 1999, tại tò' tương phân về việc đồng ý cho ông Nò' được quyền sử dụng đất cũng chỉ có ý kiến của bà Nuôi chứ không có ý kiến của ông Cao Phước Lớn về việc đồng ý cho ông Nờ sử dụng đất.

Tòa án phải xem xét gia đình ông Cao Phước Lớn đã có quá trình sử dụng đất, việc Úy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp quyền sử dụng đất cho cụ Phan Văn Tạc vào năm 1991 và cấp lại cho ông Phan Văn Nò' vào năm 2001 phải đúng quy định của pháp luật về đất đai.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thấm chỉ dựa trên việc ông Phan Văn Nờ đã được cấp quyền sử dụng đất mà không xem xét đến quá trình sử dụng đất lâu dài của gia đình ông Cao Phước Lón là làm ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình ông Cao Phước Lón. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải làm rõ trước khi một phần diện tích đất của ông Cao Phước Lcm bị thu hồi quy hoạch đường thì gia đình ông Cao Phước Lớn đã sử dụng diện tích đât là bao nhiêu, phân còn lại chưa quy hoạch, Tòa án xem xét quyên sử dụng của người đang quản lý sử dụng đât theo pháp luật đất đai.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiêm sát nhân dân tôi cao.

- Hủy bản án dân sự phúc thẩm sổ 07/2011/DS-PT ngày 11/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp và Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2010/DS-ST ngày 04/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Phan Văn Nờ với bị đơn là ông Cao Phước Lớn.

 

 
Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 103/2014/DS-GĐT ngày 05/03/2014 về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English