QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM  104/2014/DS-GĐT NGÀY 18/03/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên toà ngày 18/3/2014 tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất’’ giữa:

* Nguyên đơn:

1. Ông Phạm Ngọc Thảo, sinh năm 1965;

2. Bà Lê Thị Lan, sinh năm 1966;

* Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Bờ, sinh năm 1940;

2. Bà Trần Thị Nữ, sinh năm 1946;

Các đương sự cùng cư trú tại Thôn 1, xã Cư Ebuar, thành phố Buôn Ma Thuật, tỉnh ĐăkLăk.

Theo Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 579/2013/KN-DS 25/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc số 199/2010/DSPT ngày 27/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐăkLăk.

NHẬN THẤY

Đơn khởi kiện ngày 21/8/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyền đom là ông Phạm Ngọc Thảo và bà Lê Thị Lan trình bày: Năm 1998, vợ chồng ông Bờ, bà Nữ chuyển nhượng cho vợ chồng ông Thảo, bà Lan 500m2 đất tại thôn 1, xã Cư Ebuar, thành phố Buôn Ma Thuột với giá là 5.000.000 đồng. Việc chuyển nhượng có xác nhận của UBND xã, các bên đã giao đủ tiền và nhận đất.Vợ chồng ông Thảo đã nhiều lần yêu cầu làm thủ tục sang tên, nhưng vợ chồng ông Bờ không thực hiện. Do đó, ông Thảo và bà Lan khởi kiện yêu cầu ông Bờ và bà Nữ phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong đó có 100m2 đất thổ cư và 400m2 đất nông nghiệp và chịu mọi chi phí phát sinh khi làm thủ tục sang tên cho ông Thảo, bà Lan.

Bị đơn là ông Nguyễn Bờ và bà Trần Thị Nữ trình bày: Việc mua bán chuyển nhượng như trình bày của nguyên đon là đúng. Ông Bờ, bà Nữ đã giao đất và nhận đủ tiền nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng, vì khi mua bán hai bên thỏa thuận ông bà chỉ có nghĩa vụ giao giấy tờ để bên mua làm thủ tục sang tên. Nay ông, bà không đồng ý với yêu cầu của nguyên đon, chỉ đồng ý giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bên mua tự làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định.

Vụ án đã được giải quyết qua nhiều cấp xét xử.

Tại Bản án sơ thẩm số 161/2010/DSST ngày 08/10/2010, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk quyết định: “Công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 17/01/1998 giữa ông Phạm Ngọc Thảo, bà Lê Thị Lan và ông Nguyễn Bờ, bà Trần Thị Nữ. Buộc các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng vê việc chuyển quyền sử dụng đất ngày 17/01/1998 đổi với diện tích 500m2. Ông Nguyễn Bờ, bà Trần Thị Nữ có nghĩa vụ giao các giấy tờ có liên quan đến quyển sử dụng đất đối với lô đất chuyển nhượng trên. Ông Phạm Ngọc Thảo, bà Lê Thị Lan có nghĩa vụ làm thủ tục tách thửa và chuyến quyển sử dụng đát đôi với diện tích 500m2 trong đó 100m2 đất ở và 400m2 đất trồng cây hàng năm và nộp lệ phỉ theo quy định của Luật Đất đai”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 22/10/2010, ông Nguyễn Bờ và bà Trần Thị Nữ kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm yêu cầu chuyển quyền sử dụng đất cho nguyên đơn đối với diện tích 500m2 trong đó 100m2 đất ở và 400m2 đất là không đúng thực tế (vì hiện tại tổng diện tích đất ở của ông Bờ, bà Nữ chỉ có 300m2) làm ảnh hưỏng đến quyền lợi của gia đình.

Tại Bản án phúc thẩm số 199/2010/DSPT ngày 27/12/2010, Tòa án nhận dân tỉnh Đăk Lăk quyết định: Sửa bản án sơ thẩm. Công nhận hợp đông chuyên nhượng đất; ông Bờ, bà Nữ có nghĩa vụ giao giấy tờ đất để ông Thảo, bà Lan làm thủ tục chuyển nhượng, chi phí chuyến nhượng do ông Thảo, bà Lan chịu. Kiến nghị UBND Tp Buôn Ma Thuật điều chỉnh lại hạn mức đất ở tại hợp đồng nêu trên của bên nguyên đơn cho phù hợp với quy định hiện hành khi đương sự làm thủ tục chuyển nhượng. Kiến nghị UBND Tp Buôn Ma Thuật điểu chỉnh lại hạn mức đất ở tại Giấy chứng nhận cấp cho ông Bờ để cấp lại cho đúng với thực tế và quy định hiện hành.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ône Phạm Ngọc Thào và bà Lê Thị Lan có đơn đề nghị xem xét lại ban an phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại quyết dịnh sổ 579/2013/KN-DS ngày 25/12/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 199/2010/DSPT ngày 27/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐăkLăk. Đe nghị Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tạm đình chỉ thi hành Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên cho đến khi có quyết định giám đốc thấm.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D0324258 do Uỷ ban nhân dân thị xã Ban Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk (nay là thành pho Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk) cấp ngày 13/7/1994 có nội dung: Chứng nhận hộ ông Nguyễn Bờ được quyền sử dụng 2035m2 đất; mục đích sử dụng: Khu dân cư; thời hạn sử dụng: Lâu dài tại số thửa 41, tờ bản đồ số 02 thuộc thôn 1, xã Cư ÊBuar, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk (BL 31).

Ngày 17/01/1998, vợ chồng ông Bờ lập hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng ông Thảo 500m2 đất là một phần diện tích 203 5m2 đất nêu trên với giá là 5 000.000 đồng. Hợp đồng có chữ ký của các bên và có xác nhận của Ưỷ ban nhân dân xã Cư ÊBuar. Đơn xin chuyển nhượng 500m2 đất ở ngày 17/01/1998 của ông Bờ được ƯBND xã Cư ÊBuar xác nhận: “ỏng Nguyễn Bờ có diện tích đất 2.035m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc khu dân cư, nay chuyển nhượng 500m2 cho ông Thảo là đất không có tranh chấp gì”. Tại đơn này, cán bộ địa chính xác nhận: “xác nhận hộ ông Nguyễn Bờ có diện tích đất thổ cư 2.035m2 tại vùng quỉ hoạch khu dân cư thôn.”. Sau khi chuyển nhượng đất, ông Thảo đã trả đủ tiền, nhận đất, xây dựng hàng rào, làm nhà ở và sống ổn định từ năm 1998 cho đến nay, nhưng chưa làm thủ tục tách thửa, sang tên phần đất đã chuyển nhượng (BL 28).

Ngày 6/5/2008, Ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Bờ số AM 441899 có nội dung: Tên người sử dụng đất: Hộ Nguyễn Bờ; thửa đất sổ 309, tờ bản đồ số 30 tại xã Cư ÊBuar; diện tích: 2.025m2; mục đích sử dụng: 300m2 đất ở tại nông thôn; 1725m2 đất trồng cây hàng năm (BL 30).

Ông Thảo khởi kiện yêu cầu ông Bờ làm thủ tục tách thửa sang tên phần diện tích đất đã chuyển nhượng nêu trên theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/01/1998. Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào việc đất chuyển nhượng đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,hợp đồng có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xà, các bên trả đú tiền, nhận đất làm nhà ở nên công nhận họp đồng chuyển nhượng quyên sừ dụng đảt là có căn cứ. Lẽ ra, Tòa án chỉ công nhận họp đồng chuyển nhượng đất theo khuôn viên các bên đã xác định. Các đương sự căn cứ vào quyết định của bản án có hiệu lực pháp luật để liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xin cảp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

ViệcTòa án cấp sơ thẩm xác định trong 500m2 đất chuyển nhượng cho ông Thảo có 100m2 đất ở là không có căn cứ.

Việc xác định loại đất, mục đích sử dụng đất, hạn mức sử dụng từng loại đất thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Tòa án cấp phúc thẩm công nhận ông Thảo có quyền sử dụng 500m2 đất theo Hợp đồng ngày 17/01/1998 là đúng, nhưng nội dung kiến nghị Uỷ ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xem xét lại hạn mức đất ở của các đương sự cho phù hợp với thực tế là không có căn cứ.

Bởi các lẽ trên,

Căn cứ khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 579/2013/KN-DS ngày 25/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 199/2010/DSPT ngày 27/12/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Phạm Ngọc Thảo, bà Lê Thị Lan với bị đơn là ông Nguyễn Bờ, bà Trần Thị Nữ.

 

 
Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 104/2014/DS-GĐT ngày 18/03/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhựơng quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English