QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 107/2014/DS-GĐT NGÀY 20/03/2014 VỀ VỤ ÁN XIN LY HÔN

TOÀ DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 20/3/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án “Xin ly hôn”. Do có kháng nghị số 14/2014/KN-DS ngày 08/01/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 09/2011/DSPT ngày 31/3/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đặng Ngọc Lâm Vị; trú tại số 339/5, khu vực Thới Ngươn B, phường Phước Thới, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.

Bị đơn: Ông Võ Ngọc Tư; trú tại số 339/5, khu vực Thới Ngươn B, phường Phước Thới, quận Ô Môn, thành phố cần Thơ.

Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1. Cháu Đặng Kim Thành, sinh năm 1993.

2. Bà Huỳnh Thị Kiều Nương, sinh năm 1964.

3. Bà Võ Thị Nho, sinh năm 1960.

Cùng trú tại số 339/5, khu vực Thới Ngươn B, phường Phước Thới, quận Ô Môn, thành phố cần Thơ.

NHẬN THẤY

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 30/10/2009 và trong quá trình tổ tụng, nguyên đơn là bà Đặng Ngọc Lâm Vị trình bày: Bà và ông Võ Ngọc Tư chung sống với nhau từ năm 1991, do quen biết, có 1 con trai chung là cháu Võ Đặng Kim Thành, sinh năm 1993. Đến năm 2004 ông bà mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phước Thói, quận Ô Môn. Mâu thuẫn gia đình bắt đầu từ cuối năm 2004, ông Võ Ngọc Tư thường xuyên ghen vô cớ và đánh đập hành hung bà. Năm 2006, vợ chồng sống ly thân, tuy nhiên ông bà vẫn sống chung một nhà. Mặc dù hai bên đã hàn gắn nhiều lần nhưng không thành, nên bà yêu cầu xin ly hôn với ông Tư.

Về con chung: có một con chung là Võ Đặng Kim Thành, bà yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông Tư cấp dưỡng.

Về tài sản chung: có 01 căn nhà cấp 4, ngang 5,9m, dài 13m được xây dựng năm 1999. Phần đất thuộc 2 thửa, thửa 441 có diện tích 5.616m2 và thửa 439 diện tích 4.080m2, trong đó có 300m2 đất thổ cư. Tổng diện tích là 8.396m2 và một số loại cây ăn trái. Trong phần đất này vợ chồng bà có chuyển nhượng 1.300m2 đất ruộng cho bà Huỳnh Thị Kiều Nương, đã giao đất và nhận tiền xong nhưng chưa tách quyền sử dụng đất và tặng cho bà Võ Thị Nho (chị ruột của ông Võ Ngọc Tư) 477m2 chưa tách bộ sang tên xong. Bà yêu cầu chia đôi tài sản này sau khi đã tách quyền sử dụng đất cho bà Nho và bà Nương.

Bị đơn là ông Võ Ngọc Tư thừa nhận lời trình bày của bà Vị về thời gian kết hôn, về con chung và tài sản. Nhưng ông xác định tình cảm vợ chồng vẫn có thể cải thiện được nên ông không đồng ý ly hôn.

Trong trường hợp Tòa chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Vị thì ông không đồng ý chia tài sản, vì đây là tài sản cha mẹ ông cho riêng ông. Ông thừa nhận có chuyển nhượng cho bà Huỳnh Thị Kiều Nương 1.300m2 đất với giá 108.000.000d và tặng cho bà Võ Thị Nho 477m2 đất vườn chưa tách bộ.

Với nội dung trên,

Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 108/HNGĐ-ST ngày 22/10/2010 Tòa án nhân dân Quận Ô Môn quyết định:

- Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Ngọc Lâm Vị với ông Võ Ngọc Tư.

- Về Con chung: giao cháu Võ Kim Thành sinh năm 1993 cho bà Vị trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Tư không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: ông Võ Ngọc Tư được quyền sở hữu toàn bộ tài sản là hai thửa đất 441, diện tích 5.616m, đo thực tế 5.965,5m2 và thửa 439 diện tích 4080m2, đo thực tế 4.382m2, trong đó có 300m2 đất thổ cư tại tờ bản đồ số 10 cùng căn nhà có diện tích 78m2 tọa lạc tại khu vực Thới Ngươm B, phường Phước Thới, quận Ô Môn, thành phố cần Thơ, và 100 cây xoài, 05 cây nhãn. Ông Tư có trách nhiệm hoàn lại cho bà Vị số tiền là 589.384.500đ khi án có hiệu lực.

- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Tư, bà Vị đồng ý tách quyền sử dụng đất cho:

+ Bà Huỳnh Thị kiều Nương diện tích 1.296mtại thửa 441;

+ Bà Võ Thị Nho diện tích 447mtại thửa 439.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/11/2010 ông Võ Ngọc Tư có Đơn kháng cáo đối với bản án dân sự sơ với nội dung tài sản riêng của ông nhưng Tòa án chia tài sản làm hai là không đúng.

Ngày 29/10/2010 bà Đặng Ngọc Lâm Vị có đơn kháng cáo đối với bản án dân sự sơ thẩm với nội dung phần đất xin được chia làm 3 phần là bà, ông Tư và con là cháu Võ Đặng Kim Thành. Bà xin nhận đất chứ không nhận bằng tiền.

Tại bản án Hôn nhân gia đình phúc thẩm số 09/2011/HNPT ngày 31/3/2011, Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ quyết định:

Bác kháng cáo của bà Đặng Ngọc Lâm Vị.

Chấp nhận kháng cáo của ông Võ Ngọc Tư

Giữ nguyên bản án sơ thẩm về quan hệ hôn nhân và việc nuôi con chung.

Về tài sản chung, sửa án sơ thẩm về việc xác định tài sản chung:

- Xác định các thửa đất sỗ 441 diện tích thực tế 5.956,5m2 và thửa 439 diện tích 4.382m2 trong đó có 300m2 đất thổ cư tọa lạc tại khu vực Thới Ngưcm B, phường Phước Thới, Quận Ô Môn là tài sản riêng của ông Võ Ngọc Tư.

- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Ngọc tư cho bà Đặng Ngọc Lâm Vị và con là Võ Đặng Kim Thành phần đất có nhà diện tích 78m2 và lối đi ngang 2m từ cửa nhà ra lộ giao thông thôn Cả Chôm.

- Bà Đặng Ngọc Lâm Vị được quyền sở hữu căn nhà cấp 4 diện tích 78m2 là tài sản chung của hai người.

- Ông Võ Ngọc Tư được quyền sở hữu các loại cây trồng trên đất theo biên bản định giả ngày 13/8/2010. Ông Tư hoàn lại cho bà Vị số tiền 11.094.000đ.

Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị giữ nguyên.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm bà Đặng Ngọc Lâm Vị có đơn đề nghị xem xét lại bản án hôn nhân phúc thẩm số 09/2011/HNPT ngày 31/3/2011 của Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ với lý do đề nghị công nhận bản án sơ thẩm số 108/HNGĐ-ST ngày 22/10/2010 của Tòa án nhân dân Quận Ô Môn.

Tại Quyết định số 14/2014/KN-DS ngày 08/01/2014 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án Hôn nhân gia đình phúc thẩm số 09/2011/HNPT ngày 31/3/2011 của Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ; với nhận định:

Ông Tư và bà Vị đều thừa nhận diện tích đất nêu trên có nguồn gốc là của cha mẹ ông Tư cho; ông Tư đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1991, đến năm 1997 cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì lại ghi cấp cho “hộ” ông Võ Ngọc Tư.

Năm 1999 ông Tư, bà Vị cùng xây dựng căn nhà cấp 4 trên diện tích 78m2 đất, trồng cây ăn quả và cùng nhau nuôi dạy con cái. Như vậy bà Vị có đóng góp công sức trong việc hình thành khối tài sản.

Đáng lẽ ra, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải xác minh làm rõ: khi chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho “hộ” ông Tư thì ông Tư có đồng ý không và hộ ông Tư gồm có những người nào, thì mới có căn cứ để xác định ông Tư có đồng ý nhập phần đất tranh chấp vào khối tài sản chung của vợ chồng hay không.

Nếu qua xác minh mà không có căn cứ xác định phần đất tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng thi cũng phải xem xét công sức đóng góp của bà Vị trong thời gian chung sống để chia cho bà Vị một phần đất.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét vấn đề nêu trên, nhưng đã xác định toàn bộ diện tích đất là tài sản riêng của ông Tư là chưa đủ căn cứ.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với nội dung kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì ông Tư, bà Vị chung sống với nhau từ năm 1991. Năm 1993 ông Tư, bà Vị có một con chung là cháu Võ Đặng Kim Thành. Ngày 19/10/2004 ông Tư, bà Vị mới đăng ký kết

hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phước Thới, quận Ô Môn, cuối năm 2004 thì vợ chông xảy ra mâu thuẫn, năm 2009 bà Vị xin ly hôn ông Tư. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã giải quyết cho bà Vị được ly hôn ông Tư. Đồng thời giải quyết về phân chia tài sản và con cái.

Nay các đương sự không có khiếu nại gì về quan hệ hôn nhân và con cái, bà Vị chỉ yêu cầu xem xét lại về việc chia tài sản chung.

Xét thấy, ông Tư và bà Vị chung sống với nhau từ năm 1991, năm 1995 bà Vị nhập hộ khẩu vào gia đình ông Tư. Trong thời gian chung sống vợ chồng ông Tư bà Vị có quản lý, sử dụng một căn nhà cấp 4 trên diện tích đất 4.382m2 tại thửa 439 và thửa đất số 441 diện tích thực tế 5.956,5m2. Các đương sự đều thừa nhận diện tích đất nêu trên có nguồn gốc là của cha mẹ ông Tư cho; cả hai diện tích đất này ông Tư đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1991, đến năm 1997 cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì lại ghi cấp cho “hộ” ông Võ Ngọc Tư. Năm 1999 ông Tư, bà Vị cùng xây dựng căn nhà cấp 4 trên diện tích 78m2 đất, trồng cây ăn quả và cùng nhau nuôi dạy con cái. Như vậy bà Vị có đóng góp công sức trong việc hình thành khối tài sản. Nay ông Tư cho rằng đây là tài sản cha mẹ ông cho riêng ông nên ông không đồng ý chia cho bà Vị, còn bà Vị cho rằng đây là tài sản chung của vợ chồng, bà đề nghị chia tài sản chung.

Đáng lẽ ra, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải xác minh làm rõ: khi chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho “hộ” ông Tư thì ông Tư có đồng ý không và tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho “hộ” ông Tư thì lúc này “hộ” ông Tư gồm có những người nào, thì mới có căn cứ để giải quyết vụ án và mới có căn cứ để xác định ông Tư có đồng ý nhập phần đất tranh chấp vào khối tài sản chung của vợ chồng hay không. Nếu qua xác minh mà không có căn cứ xác định phần đất tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng thì cũng phải xem xét công sức đóng góp của bà Vị trong thời gian chung sống để chia cho bà Vị một phần đất. có như vậy mới hợp tình hợp lý.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét vấn đề nêu trên, nhưng đã xác định toàn bộ diện tích đất là tài sản riêng của ông Tư là chưa đủ căn cứ. Vì vậy, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa dân sự xét xử giám đốc thẩm đề nghị hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại là có căn cứ chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy phần chia tài sản chung của bản án phúc thẩm số 09/2011/HNPT ngày 31/3/2011 của Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ và hủy phần chia tài sản chung của bản án sơ thẩm số 108/HNGĐ-ST ngày 22/10/2010 của Tòa án nhân dân Quận Ô Môn, thành phố cần Thơ về vụ án “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn là bà Đặng Ngọc Lâm Vị với bị đơn là ông Võ Ngọc Tư và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan là cháu Đặng Kim Thành, bà Huỳnh Thị Kiều Nương, bà Võ Thị Nho

 

 
Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 107/2014/DS-GĐT ngày 20/03/2014 về vụ án xin ly hôn

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English