QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 110/2014/DS-GĐT NGÀY 24/03/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 24/3/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do có kháng nghị số 08/2014/KN-DS ngày 08/02/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thấm số 30/2013/DSPTngày 02/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Bích Ngọc, sinh năm 1978; trú tại số 9/43 đường 11, phường 11, quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh (ủy quyền cho ông Phạm Đăng Dũng tham gia tố tụng).

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Sanh, sinh năm 1962; trú tại số 1A, Dương Vân Nga, tổ 9, Tây Nam, Vĩnh Hải, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.

Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1.Ông Phạm Huệ; trú tại số 9/43 đường 11, phường 11, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Ông Nguyễn Viết Nguyện; trú tại số 10 Hồng Bàng, phường Phước Tiến, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.

3. Ông Trần Minh Tâm; trú tại số 1A Nguyễn Du, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.

4. Ông Trần Minh Dìn; trú tại 1A Dương Vân Nga, phường Vĩnh Hải, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.

5. Bà Trần Thị Tròn; trú tại 1A Dương Vân Nga, phường Vĩnh Hải, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.

6. Bà Trần Thị Diệu; trú tại 1A Dương Vân Nga, phường Vĩnh Hải, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 10/3/2011 của bà Phạm Thị Bích Ngọc và lời khai của ông Phạm Đăng Dũng đại diện theo ủy quyên của bà Ngọc trình bày:

Ngày 08/12/2009, bà Phạm Thị Bích Ngọc có cho bà Nguyễn Thị Sanh vay số tiền 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng), hợp đồng có chứng thực của phòng công chứng, thời hạn vay là 02 tháng, lãi suất vay là 3%. Vì tin tưởng nhau nên ngày 18/12/2009, bà Ngọc và bà Sanh có lập hợp đồng hợp tác liên doanh (bà Sanh là chủ doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Sanh) xây dựng chung cư 17 Củ Chi, phường Vĩnh Hải, thành phố Nha Trang. Để hoàn thành hợp đồng này, từ ngày 15/12/2009 đến ngày 18/12/2009, bà Ngọc đã chuyển cho bà Sanh tổng cộng số tiền 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng). Từ khi nhận được tiền, bà Sanh cố tình không thực hiện đúng theo các thỏa thuận đã ký kết trong hợp đồng. Nay bà Ngọc yêu cầu bà Sanh phải trả lại cho bà tổng số tiền đã nhận là 6.500.000.000đ (sáu tỷ năm trăm triệu đồng) và lãi suất theo quy định của pháp luật.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Sanh trình bày: Bà và bà Phạm Thị Bích Ngọc có quen biết nhau qua sự giới thiệu của em chồng bà. Ngày 08/12/2009, bà Ngọc và bà có lập hợp đồng vay số tiền 2.500.000.000đ. Bà Ngọc đã chuyển số tiền này qua Ngân hàng cho bà. Khi vay bà có thế chấp cho bà Ngọc 04 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2010, bà Ngọc có mua của bà 01 xe ôtô BKS 79D-5555 với giá 65.000 USD, quy ra tiền Việt Nam là 1.274.000.000đ. Bà đã trả cho bà Ngọc 1.000.000.000đ. Khi giao tiền hai bên không viết giấy biên nhận nhưng có bà Hằng là bạn bà Ngọc và anh Huỳnh Văn Cường là tài xế của bà Ngọc làm chứng. Nay bà chỉ còn nợ bà Ngọc 1.500.000.000đ, bà đồng ý trả 1.500.000.000đ cho bà Ngọc và yêu cầu bà Ngọc trả lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà đã thế chấp.

Về hợp đồng liên doanh, bà thừa nhận hai bên có ký hợp đồng số 02/HĐHTKD ngày 18/12/2009 nhưng hai bên không thực hiện hợp đồng này vì bà thấy điều khoản chuyển quyền sử dụng đất qua Công ty Quang Đại Phát là không hợp lý. Hợp đồng này do bà đánh máy, không có chữ viết tay nào. Khi hợp đồng không thành, bà có vay của bà Ngọc 5.000.000.000đ (năm tỷ đồng), hai bên có viết giấy vay tiền với bên cho vay ghi tên ông Phạm Huệ là cha bà Ngọc. Bà Ngọc có chuyển cho bà 4.000.000.000đ. Sau đó bà Ngọc qua Mỹ gấp nên bà Ngọc có điện thoại cho bà nói giao tiền cho ông Huệ nhận thay. Ông Huệ đã nhận thay số tiền 3.900.000.000đ, cộng thêm 100.000.000d tiền bà Ngọc thiếu do mua yến và vi cá là đủ 4.000.000.000đ. Khi nhận tiền ông Huệ không viết giấy biên nhận mà giao lại giấy nợ chính cho bà nên bà không còn nợ khoản tiền 4.000.000.000đ.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Viết Nguyện trình bày: Ông có bán cho bà Ngọc 01 xe ôtô BKS 79D-5555 với giá tiền 65.000 USD (bằng 1.400.000.000đ). Bà Ngọc đưa cho ông 400.000.000đ. Ông đồng ý cấn trừ 1 tỷ đồng tiền bà Sanh thiếu nợ của bà Ngọc. Tại bản tự khai ngày 30/5/2012 ông Nguyện lại khai là ông có bán một xe ôtô BKS 79D-5555 với giá tiền 65.000 USD với giá tiền Việt Nam là 1.274.000đ, ông có bớt cho bà Ngọc 10.000.000đ để mua lốp xe, có hai người đi cùng bà Ngọc là lái xe và bà Hằng chứng kiến.

Ông Trần Minh Tâm (con của bà Sanh) trình bày: Lý do ông có liên quan trong vụ án này là ông có cho mẹ ông là bà Sanh mượn 50.000.000đ để đưa cho bà Phạm Thị Bích Ngọc nộp vào ngân hàng ngày 18/12/2009. số tiền này ông đưa trực tiếp cho bà Ngọc tại ngân hàng, sau đó mẹ ông đã trả lại cho ông. Còn việc vay mượn tiền giữa mẹ ông và bà Ngọc ông không rõ. Ông không có yêu cầu gì về số tiền này.

Bà Trần Thị Diệu trình bày. Ngày 24/7/2009 bà được Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H32452 đối với thửa đất số 617 tờ bản đồ số 22. Ngày 08/12/2009 bà đã tự nguyện làm văn bản ủy quyền cho mẹ bà là bà Sanh toàn quyên sử dụng. Việc mẹ bà thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà cho bà Ngọc, bà có biết. Nay có tranh chấp giữa mẹ bà và bà Ngọc, bà không có ý kiến gì. Ý kiến của mẹ bà là ý kiến của bà. Vì việc bận nên bà không tham gia phiên toà.

Ông Trần Minh Dìn trình bày: Ông được Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với lô đất có diện tích 437,5m2 thuộc thửa số 618, tờ bản đồ số 22 tại Phước Đồng, Nha Trang. Ngày 08/12/2009 ông tự nguyện làm văn bản ủy quyền cho bà Sanh toàn quyền sử dụng. Mẹ ông thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông cho bà Ngọc, ông có biết việc này. Nay có tranh chấp giữa mẹ ông và bà Ngọc, ông không có ý kiến gì. Ý kiến của mẹ bà là ý kiến của bà. Vì việc bận nên bà không tham gia phiên toà.

Bà Trần Thị Tròn trình bày: Ngày 13/8/2009 bà ký giấy ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Sanh là mẹ bà được quyền sử dụng lô đất tại xã Phước Đồng, Nha Trang, số sổ AG440170 cấp ngày 15/8/2005. Mẹ bà được quyền định đoạt, thế chấp, mua bá nên bà không có ý kiến gì. Mẹ bà toàn quyền quyết định trong việc vay tiền của bà Phạm Thị Bích Ngọc và xử lý tài sản của bà. Ý kiến của mẹ bà là ý kiến của bà. Vì việc bận nên bà đề nghi Tòa xét xử vắng mặt bà.

Bà Đặng Thị Thủy Hằng trình bày. Bà không nhớ ngày tháng năm, bà Ngọc có rủ bà đi chồng tiền mua xe cho bà Sanh. Đen nhà bà Sanh, bà Ngọc có lấy tiền bỏ ra bàn và có nói với bà Sanh là chồng tiền mua xe. Bà Ngọc có nói với bà Sanh gửi bớt lại 1.000.000.000đ. Vợ chồng bà Sanh đẩy qua cho bà Ngọc 1 tỷ đồng. Còn lại giữa bà Ngọc và bà Sanh làm ăn thế nào bà không biết.

Tại bản tự khai ngày 17/5/2011 ông Huỳnh Văn Cường trình bày. Ông không nhớ ngày tháng nào, bà Ngọc nhờ ông chở đi mua xe ôtô tại đường Phan Bội Châu, có chị Hằng đi cùng. Khi đến nơi ông biết ôtô 79D-5555 của bà Sanh. Hai bên thỏa thuận mua bán như thế nào ông không rõ. Sau đó bà Ngọc có bảo ông xem giùm xe, ông có bảo xe tốt và bà Ngọc có bảo tôi ra xe lấy bịch tiền lên cho bà Ngọc. Hai bên giao tiền cho nhau ông chỉ thấy tiền để trên bàn. Bà Sanh có đưa lại cho bà Ngọc và nói trả lại cho bà Ngọc tiền nợ gì đó 1.000.000.000đ. Ông không biết gì về việc làm ăn giữa bà Ngọc và bà Sanh.

Với nội dung trên,

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 31/2012/DSST ngày 22/6/2012 Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang quyết định: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

- Buộc bà Nguyễn Thị Sanh phải trả cho bà Phạm Thị Bích Ngọc 9.425.000.000đ (Chín tỷ bốn trăm hai mươi lăm triệu đồng).

- Bà Phạm Thị Bích Ngọc có nghĩa vụ trả lại cho bà Nguyễn Thị Sanh các tài sản đã thế chấp sau khi đã nhận đủ số tiền trên gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H24097 do Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang cấp ngày 10/8/2008, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số HI 1241 do Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang cấp ngày 15/8/2005; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H32452 do Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang cấp ngày 24/7/2009 (tất cả đầu là bản chính).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/6/2012 bị đơn bà Nguyễn Thị Sanh có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm để đảm bảo quyền lợi cho bà.

Ngày 03/7/2012 ông Phạm Đăng Dũng đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm để đảm bảo quyền lợi cho bà Ngọc.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 30/2013/DSPT ngày 02/5/2013 Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa quyết định:

Bác kháng cáo của bà Phạm Thị Bích Ngọc, chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị Sanh; sửa bản án sơ thẩm số 31/2012/DS- ST ngày 22/6/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang như sau:

- Buộc bà Nguyễn Thị Sanh phải trả cho bà Phạm Thị Bích Ngọc 8.209.687.000đ (Tám tỷ, hai trăm linh chín triệu, sáu trăm tám mươi bảy ngàn đồng).

- Sau khi bà Nguyễn Thị Sanh thực hiện xong các nghĩa vụ đối với bà Phạm Thị Bích Ngọc, bà Phạm Thị Bích Ngọc phải trả lại cho bà Nguyễn Thị Sanh các tài sản đã thế chấp gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H24097 do Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang cấp ngày 10/8/2008, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số HI 1241 do Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang cấp ngày 15/8/2005; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H32452 do Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang cấp ngày 24/7/2009 (tất cả đều là bản chính).

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Sanh có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên của tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 08/2014/KN-DS ngày 18/02/2014 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 30/2013/DSPT ngày 02/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà; với nhận định:

Về khoản vay 2,5 tỉ đồng: việc thanh toán trả nợ giữa bà Ngọc và bà Sanh thông qua việc ông Nguyện bán xe ôtô của Công ty Đại Vương tuy không làm thành văn bản nhưng lời khai của bà Sanh, ông Nguyện thống nhất với lời khai của người làm chứng là bà Đặng Thị Thuý Hằng, bạn bà Ngọc (BL số 101, 102) và ông Huỳnh Văn Cường, lái xe của bà Ngọc (BL số 76, 99). Phù hợp với giấy bà Ngọc viết tay ghi bà đưa cho ông Ty (Nguyện) 274.000.000đ tiền mua xe ôtô.

Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm không chấp nhận các chứng cứ, tài liệu do bà Sanh, ông Nguyện và những người làm chứng cung cấp. Trong khi chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu chứng minh lời khai của các đương sự nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm bác lời khai của bà Sanh về việc bà đã trả cho bà Ngọc 1.000.000.OOOđ ở khoản vay 2.500.000.000đ là thiếu căn cứ và không thuyết phục.

Về khoản vay 4.000.000.000đ: về vấn đề này cơ quan điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa đã làm rõ qua các tài liệu cung cấp cho Tòa án. Ngày 26/12/2009 bà Sanh trả nợ cho bà Ngọc, trong đó sổ tiền 3.900.000.000đ cụ Huệ nhận thay theo yêu cầu của bà Ngọc, còn 100.000.000d trừ vào tiền bà Ngọc mua yến sào, vi cá. Sau khi nhận tiền cụ Huệ đã giao cho bà Sanh hợp đồng vay ngày 18/12/2009.

Căn cứ các lời khai của cụ Huệ, ông Phạm Dũng (con cụ Huệ) và những người có liên quan trước cơ quan điều tra và Tòa án cùng các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, cụ Huệ không trực tiếp gặp và ký hợp đồng mượn tiền với bà Sanh, cụ khai nguồn tiền cho vay không thống nhất, không có giấy tờ giao nhận tiền giữa bà Sanh và cụ Huệ (BL số 56 đến số 61A). Lời khai của các bên về hợp đồng vay và trả nợ còn mâu thuẫn, một số vấn đề chưa được làm rõ như: cụ Huệ có cho bà Sanh mượn tiền hay không? cụ Huệ nhận tiền từ bà Sanh trả có phải là nhận thay bà Ngọc không? bà Sanh có cấn trừ nợ bà Ngọc tiền mua hàng không? Nhưng Tòa án đã tuyên chấp nhận yêu cầu của bà Ngọc đòi bà Sanh phải trả đủ nợ gốc và lãi là chưa đủ căn cứ.

Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xác định tính có căn cứ, tính hợp pháp để chấp nhận hoặc không chấp nhận các tài liệu do cơ quan điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa cung cấp dẫn tới việc sử dụng, đánh giá chứng cứ vụ án không khách quan.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì bà Phạm Thị Bích Ngọc cho rằng: ngày 08/12/2009 bà và bà Nguyễn Thị Sanh ký “Hợp đồng mượn tiền” nội dung cho bà Sanh vay vốn số tiền 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng” có chứng thực của Phòng công chứng số 1 tỉnh Khánh Hoà, thời hạn vay 01 tháng, lãi suất thỏa thuận 3%/ tháng, khi vay bà Sanh thế chấp 04 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do quen biết và tin tưởng nhau trong làm ăn, bà và bà Sanh tiếp tục ký “Hợp đồng hợp tác liên doanh” số 01 ngày 18/12/2009, nội dung hai bên góp vốn xây dựng chung cư, trước đó ngày 15 và ngày 18/12/2009, bà Ngọc chuyển cho bà Sanh 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng), từ khi nhận tiền, bà Sanh không thực hiện cam kết trả nợ theo hợp đồng, nay bà khởi kiện đòi bà Sanh trả cả hai khoản vay với số tiền 6.500.000.000đ gốc (sáu tỷ năm trăm triệu đồng) và lãi theo thỏa thuận.

Bà Nguyễn Thị Sanh thống nhất với bà Phạm Thị Bích Ngọc về hợp đồng vay vốn tiền 2.500.000.OOOđ. Bà Sanh thừa nhận chưa trả lãi cho bà Ngọc, còn nợ gốc bà đã trả cho bà Ngọc l.OOO.OOO.OOOđ (một tỷ đồng) thông qua việc bà Ngọc mua xe của ông Nguyễn Viết Nguyện giám đốc Công ty TNHH TM Đại Vương (Công ty Đại Vương thuộc sở hữu của ông Nguyện và bà Sanh) giá bán xe là 65.000ƯSD, tương đương 1.274.000.000đ (một tỷ hai trăm bảy tư triệu đồng), trong đó bà Ngọc giữ lại 1.000.000.OOOđ (một tỷ đồng) để trừ vào khoản tiền bà Sanh vay 2.500.000.000đ, bà Ngọc chỉ đưa lại cho ông Nguyện 274.000.000d. Nay bà Sanh xác nhận bà còn nợ bà Ngọc 1.500.000.000đ (một tỷ năm trăm triệu đồng) và lãi vay theo thỏa thuận, còn khoản nợ 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng) bà đã trả nợ cho bà Ngọc do cụ Huệ nhận thay.

Xét thấy: việc thanh toán khoản nợ 2.500.000.000đ giữa bà Ngọc và bà Sanh thông qua việc ông Nguyện bán xe ôtô của Công ty Đại Vương cho bà Ngọc, tuy không làm thành văn bản nhưng lời khai của bà Sanh, ông Nguyện thống nhất với lời khai của người làm chứng là bà Đặng Thị Thuý Hằng, bạn bà Ngọc (BL số 101, 102), ông Huỳnh Văn Cường, lái xe của bà Ngọc (BL số 76, 99) và phù hợp với giấy bà Ngọc viết tay ghi bà đưa cho ông Ty (Nguyện) 274.000.000d tiền mua xe ôtô.Mặt khác, tại biên bản ghi lời khai ngày 11/3/2010 bà Phạm Thị Bích Ngọc xác nhận có việc bà Mua xe ô tô của ông Nguyện và bà Ngọc cho rằng: “Tôi buộc phải mua chiếc xe này để trừ nợ chứ thực sự không muốn mua” nhưng bà Ngọc cho rằng giá thực sự chiếc xe bà Ngọc phải trả là 904 triệu đồng chứ không phải giá như bà Sanh khai.

Như vậy, có căn cứ xác định có việc bà Ngọc mua xe của ông Nguyện để trừ nợ cho bà Sanh. Tuy nhiên, lời khai của các đương sự không thống nhất về việc thanh toán tiền mua xe và tiền trả nợ; Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, để làm rõ thực sự bà Sanh đã mua chiếc xe của ông Nguyện với giá bao nhiêu và ông Nguyện đã trả nợ cho bà Sanh số tiền bao nhiêu? Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm bác yêu của bà Sanh về việc bà đã trả cho bà Ngọc 1.000.000.000đ ở khoản vay 2.500.000.000đ là chưa đủ căn cứ.

Về khoản vay 4.000.000.000đ: theo tài liệu trong hồ sơ thì bà Sanh đã nhận của bà Ngọc 4.000.000.000đ bằng 05 giấy nộp tiền của bà Ngọc tại Ngân hàng trong ngày 15/12/2009 và ngày 18/12/2009; sau đó hai bên hợp thức hóa bằng hợp đồng vay 5.000.000.000đ ngày 18/12/2009 mà bên cho vay là cụ Phạm Huệ (cha bà Ngọc) nhưng bà Ngọc tự ký tên cụ Huệ vào hợp đồng, với tư cách bên cho vay.

Căn cứ các lời khai của cụ Huệ, ông Phạm Dũng (con cụ Huệ) và những người có liên quan tại cơ quan điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa và Tòa án cùng các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, thì thể hiện cụ Huệ không trực tiếp gặp và ký hợp đồng mượn tiền với bà Sanh mà do bà Ngọc tự ký tên cụ Huệ vào hợp đồng mượn tiền; việc cụ Huệ khai nguồn tiền cho vay không thống nhất, có lúc khai rút ở ngân hàng, lúc lại khai nguồn tiền cho bà Sanh vay đã có sẵn ở nhà; không có giấy tờ giao nhận tiền giữa bà Sanh và cụ Huệ (BL số 56 đến số 61A); lời khai của các bên về hợp đồng vay và trả nợ còn mâu thuẫn, nhưng cụ Huệ thừa nhận là có nhận của bà Sanh 3,9 tỷ đồng vào ngày 28/12/2009. Mặt khác, theo tài liệu của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa cũng xác định: “Không đủ cơ sở để kết luận là có việc ông Phạm Huệ cho bà Nguyễn Thị Sanh mượn 5 tỉ VNĐ tiền mặt vào ngày 18/12/2009...”. Vì vậy, không đủ căn cứ xác định giữa bà Sanh và cụ Huệ có hợp đồng vay 5 tỉ đông nên cũng không có căn cứ xác định việc bà Sanh trả nợ tiền vay của cụ Huệ số tiền 3.900.000.000đ.

Đáng lẽ ra trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải đối chất giữa các bên đương sự nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các nhân chứng với nhau để xác định thực tế có việc bà Sanh vay tiền của cụ Huệ hay không? Nấu có thì nguồn tiền cụ Huệ cho bà Sanh vay do đâu mà cụ Huệ có, như vậy mới có căn cứ để giải quyết vụ án.

Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ vấn đề nêu trên nhưng đã chấp nhận yêu cầu của bà Ngọc, buộc bà Sanh phải trả cho bà Ngọc 4 tỷ đồng tiền gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật là chưa đủ căn cứ. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại là có căn cứ chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 30/2013/DSPT ngày 02/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 31/2012/DSST ngày 22/6/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa về vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn bà Phạm Thị Bích Ngọc và bị đơn bà Nguyễn Thị Sanh giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Bích Ngọc với bị đơn là bà Nguyễn Thị Sanh, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Huệ và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

 

 
Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 110/2014/DS-GĐT ngày 24/03/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English