QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 129/2014/DS-GĐT NGÀY 26/03/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 26/3/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đưcmg sự:

Nguyên đơn:

Ông Nguyễn Minh Châu, sinh năm 1944; trú tại thôn Tân Mỹ, xã Quảng huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Quang Định sinh năm 1944;

2. Bà Nguyễn Thị Kính sinh năm 1954.

Cùng trú tại: thôn Tân Mỹ, xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình

Theo Quyết định kháng nghị số 08/2014/KN-DS ngày 08/01/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DS-PT ngày 28/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn- ông Nguyễn Minh Châu trình bày: cha mẹ ông là cụ Nguyễn Nhạc và cụ Nguyễn Thị Diệc (đều đã chết) để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 1,490m2 thuộc thửa 106, tờ bản đồ số 10, tại thôn Tân Mỹ, xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cha mẹ ông chết không để lại di chúc, các anh chị em ông thống nhất cho ông quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Năm 2009, do Nhà nước mở đường đi quamột phần đất của ông, nên hàng rào cũ giáp với con đường mới mở không còn, khi ông tiến hành xây dựng lại hàng rào thì ông Nguyễn Quang Định và bà Nguyễn Thị Kính đến ngăn cản và cho rằng trong thửa đất ông đang quản lý, sử dụng có một phần đất của cha mẹ ông Định, bà Kính; đồng thời ông Định, bà Kính tự ý xây móng hàng rào và xây một tấm bia trên thửa đất ông đang quản lý, sử dụng. Nay ông yêu cầu ông Định, bà Kính phải tháo dỡ hàng rào và tấm bia ra khỏi thửa đất của gia đình ông.

Bị đơn - ông Định, bà Kính trình bày: Ông, bà cho rằng diện tích đất tranh chấp nằm trong khuôn viên gia đình ông, bà sử dụng từ năm 1942. Năm 1960 cha mẹ ông, bà xây một căn nhà ba gian, năm 1966 do chiến tranh ác liệt nên cha mẹ ông, bà làm căn hầm trú ẩn. Tháng 4 năm 1966, cha ông, bà đi biển bị bom chết, ngày 05/5/1966 máy bay Mỹ thả thùng nhiên liệu trúng căn hầm trú ấn làm chết 09 người gồm mẹ, các anh chị em và người thân trong gia đình ông, bà. Từ đó ông Định đi thoát ly, đến năm 1975 thì trở về địa phưcmg; bà Kính lúc đó còn nhỏ được Đồn Công an vũ trang Cảng Gianh nhận làm con nuôi và cho đi sơ tán, đến năm 1970 cũng trở về địa phương. Do mảnh đất của cha mẹ gắn liền với nhiều kỷ niệm đau thương nên khi trở về địa phương, ông, bà không ở trên thửa đất cũ mà được địa phương cấp cho ông, bà chỗ đất khác để làm nhà ở, nhưng hàng năm vào ngày 05/5 âm lịch ông, bà vẫn đến nơi đó để thắp hương cầu nguyện cho cha mẹ và người thân. Ông, bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Châu.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2010/DSST ngày 17/9/2010, Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình quyết định:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Minh Châu đối với ông Nguyễn Quang Định và bà Nguyễn Thị Kính về việc ông Định, bà Kính đến chiếm và xây dựng các vật kiến trúc trái phép trên thửa đất 106, tờ bản đồ số 10 thôn Tân Mỹ, xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Nguyễn Minh Châu và các anh chị em.

Buộc ông Nguyễn Quang Định và bà Nguyễn Thị Kính phải tháo dỡ 13,3m hàng rào xây bằng đá vôi xanh, vữa xi măng tính từ mép hàng rào ông Nguyễn Minh Châu xây dựng dở kéo về phía Bắc nằm ở vị trí tiếp giáp đường giao thông nội thôn và 01 tấm bia được đúc bằng xi măng dài lm, rộng 0,4m được đánh dấu chữ thập nằm ở vị trí tính từ mép hàng rào do ông Định, bà Kính xây dựng kéo thẳng về hướng Tây thửa đất 106 với khoảng cách 10,4m.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 28/9/2010, ông Định, bà Kính có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DSPT ngày 28/02/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 08/2014/KN-DS ngày 08/01/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DSPTTại Quyết định kháng nghị số 08/2014/KN-DS ngày 08/01/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DSPT ngày 28/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thấm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2010/DSST ngày 17/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 26/3/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận.

XÉT THẤY

Theo trình bày của ông Định, bà Kính thì phần đất tranh chấp với ông Châu trước đây nằm trong khuôn viên đất của cha mẹ ông, bà sử dụng từ năm 1942, đến năm 1960, cha mẹ ông, bà có làm căn nhà 03 gian. Đến năm 1966, do chiến tranh nên cha mẹ ông, bà có làm một căn hầm trú ẩn sau hồi căn nhà trên. Tháng 4/1966, cha ông bà đi biển bị bom chết, ngày 05/5/1966 máy bay Mỹ thả thùng nhiên liệu trúng căn hầm trú ẩn làm chết 09 người gồm mẹ, các anh chị em và người thân trong gia đình ông bà. Sau đó ông Định thoát ly, bà Kính khi ấy còn nhỏ nên được Đồn Công an vũ trang Cảng Giang đưa về nuôi. Sau chiến tranh, ông, bà về địa phương và được cấp đất làm nhà ở tại thôn Tân Mỹ. Đe tưởng niệm sự kiện đau thương của gia đình, ông, bà có đến xây móng hàng rào, đặt bia tưởng niệm tại vị trí có ngôi nhà và căn hầm trú ẩn trên khuôn viên đất cũ của cha mẹ ông, bà, nay theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đứng tên cụ Nhạc (cha của ông Châu) nên giữa hai bên đã phát sinh tranh chấp.

Theo trình bày và xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Quảng Phúc tại: Biên bản kiểm tra công trình xây dựng trái pháp luật ngày 13/7/2010 (BL 29); xác nhận ngày 29/6/2010 tại Đơn ngày 25/6/2010 của ông Định (BL 47); Biên bản làm việc ngày 18/02/2011 với Tòa án cấp phúc thẩm (BL 131,132). Đồng thời, theo xác nhận của cụ Nguyễn Thanh Duy tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/02/2011 (BL 133,134) và theo xác nhận của ông Phạm Bá Hạt- nguyên Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Bình ngày 12/10/2010 (BL 107); xác nhận ngày 10/10/2010 của ông Nguyễn Minh Sườn (BL 108,109) và kết họp với trình bày nêu trên của ông Định, bà Kính thì có căn cứ xác định gia đình ông Định, bà Kính đã có nhà, đất, hầm trú ẩn tại phần đất hiện nay các đương sự đang tranh chấp và có sự kiện ngày 05/5/1966, máy bay Mỹ thả thùng nhiên liệu làm chết 09 người thân của ông Định, bà Kính.và được thể hiện tại các tài liệu sau: Biên bản hòa giải ngày 13/7/2010 (BL 53,54); Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 17/9/2010 (BL 87); Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 28/02/2011 (BL 145). Riêng về vị trí nhà của cha mẹ ông Định, bà Kính, tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 18/02/2011, (BL 133, 134), ông Châu xác nhận: “Vị trí nhà của gia đình bố, mẹ ông Định nằm cạnh cây keo, từ hàng rào xây vào 3,2m, kéo thẳng ra phía Nam dài 18,8m, nằm cạnh phía Đông (hàng rào xây) dài 16,5m với 26,64m2”. về vị trí hầm trú ẩn, theo trình bày của ông Định là sau hồi căn nhà cha mẹ ông đã làm và vị trí ông Định, bà Kính đặt bia tưởng niệm hiện nay là trên căn hầm trú ẩn trước đây. Tại xác nhận ngày 10/10/2010 (BL 108,109) và tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/02/2011 nêu trên, ông Nguyễn Minh Sườn, nguyên là cán bộ có mặt tại sự kiện sập hầm trú ẩn ngày 05/5/1966 cho rằng vị trí hầm của gia đình ông Định, bà Kính nằm dưới bia, cạnh cây bời lời, phía sau bia là nhà của bố mẹ ông Định tính từ Nam ra Bắc, phía trước là nhà của gia đình ông Nhạc. Theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 28/02/2011 (BL 145), ông Châu cho rằng việc cắm bia mộ của gia đình ông Định là sai và không đồng ý cho đào vườn nhà ông. Mặt khác, theo 02 sơ đồ (BL 135,136) do ông Nguyễn Văn Đạo, cán bộ địa chính xã Quảng Phúc lập (kèm theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18/02/2011) thì cũng chỉ thể hiện phần đất của cha mẹ ông Định, bà Kính theo quan điểm của ông Châu, ông Định, bà Kính. Do đó cần phải tiến hành xem xét, thẩm định lại để xác định vị trí ngôi nhà và căn hầm trú ẩn của gia đình ông Định, bà Kính. Trên cơ sở đó mới xác định được phần đất của gia đình ông Định, bà Kính trên thửa đất hiện gia đình ông Châu đang quản lý, sử dụng.

Hơn nữa, để giải quyết có lý, có tình, tôn trọng yếu tố tâm linh và nguyện vọng chính đáng của gia đình ông Định, bà Kính, tại Biên bản làm việc ngày 18/02/2011 (BL 131, 132) của Tòa án cấp phúc thẩm với Ủy ban nhân dân xã Quảng Phúc, thì chính quyền địa phương và đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã cũng có ý kiến hòa giải theo hướng: ông Châu cắt cho ông Định, bà Kính 4m chiều ngang giáp với mặt đường và địa phương sẽ cấp thêm cho một phần đất liền kề (hiện Ủy ban nhân dân xã đang quản lý) để gia đình ông Định, bà Kính có một phần diện tích đất làm khu tưởng niệm. Do vậy, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành hòa giải giữa hai bên đương sự; đồng thời mời chính quyền địa phương tham gia hòa giải theo hướng nêu trên.

Trong trường hợp không hòa giải được thì cần căn cứ vào những chứng cứ thu thập được, căn cứ vào xác nhận của chính quyền địa phương, lời khai của người làm chứng để xác định vị trí ngôi nhà và căn hầm trú ẩn của gia đình ông Định, bà Kính; trên cơ sở đó xác định phần đất còn lại của gia đình ông Định, bà Kính và công nhận quyền sử dụng đất của ông Định, bà Kính đối với phần đất đó. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào quá trình kê khai, đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông Châu để chấp nhận yêu cầu của ông Châu; buộc ông Định, bà Kính tháo dỡ hàng rào và tấm bia ra khỏi phần đất tranh chấp là chưa đủ căn cứ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Định, bà Kính.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 08/2014/KN-DS ngày 08/01/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2011/DSPT ngày 28/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2010/DS-ST ngày 17/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Minh Châu với bị đơn là ông Nguyễn Quang Định, bà Nguyễn Thị Kính.

 

 
Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 129/2014/DS-GĐT ngày 26/03/2014 về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English