QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 155/2014/DS-GĐT NGÀY 18/04/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 18 tháng 4 năm 2014, tại trụ sở Cơ quan thường trực của Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự là:

Nguyên đơn:

Bà Nguyễn Thị Đầm, sinh năm 1934

Địa chỉ: Ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Đầm:

Chị Nguyễn Thị Chon, sinh năm 1970

Địa chỉ: Ấp Rừng sến, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Bị đơn:

Anh Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1954

Địa chỉ: Ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Ánh, sinh năm 1958

2. Anh Nguyễn Văn Nhựt, sinh năm 1981

3. Amh Nguyễn Văn Linh, sinh năm 1983

4. Anh Nguyễn Văn Vũ, sinh năm 1984

5. Anh Nguyễn Hoài Phưong, sinh năm 1988

6. Chị Nguyễn Thị Ngọc Hoa, sinh năm 1984

7. Chị Vũ Thị Loan, sinh năm 1985

Cùng địa chỉ: Ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long

NHẬN THẤY

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đầm do chị Nguyễn Thị Chon đại diện trình bày:

Thửa đất số 547, tờ bản đồ số 27 có diện tích 2.432m2 tọa lạc tại xã Mỹ Hạnh Bắc hiện anh Nguyễn Văn Minh (con bà Đầm) đang quản lý và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp ngày 27/5/2005 là của vợ chồng bà Nguyễn Thị Đầm và ông Nguyễn Văn Hoanh khai khấn và sử dụng từ trước giải phóng. Năm 1991, ông Hoanh chết, bà Đầm với con gái là Nguyễn Thị Chon tiếp tục sử dụng. Đen năm 2000, chị Chon có gia đình và theo chồng, lúc này anh Minh có hỏi bà Đầm xin canh tác, bà Đầm đồng ý và sau đó anh Minh tự đi đăng ký đế được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Trong quá trình sử dụng trước đây, bà Đầm được ủy ban nhân dân xã Mỹ Hạnh Bắc cấp giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất bưng đối với phần đất có diện tích 2.794m2 vào năm 1991. Đến năm 2000, bà Đầm được nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng 832m2 đất cùng một số cây tràm và bạch đàn với tổng giá trị 1.057.000 đồng mà không ai tranh chấp.

Từ đó, bà Đầm xác định thửa đất số 547 nói trên là của bà Đầm, anh Minh tự đi đăng ký và họp thức hóa quyền sử dụng đất là không đúng, nên bà Đầm yêu cầu anh Minh trả lại quyền sử dụng đất cho bà Đầm. Riêng phần cây tràm trên đất bà Đầm đồng ý bồi hoàn giá trị lại cho anh Minh với giá Hội đồng định giá đã định.

Bị đơn anh Nguyễn Văn Minh trình bày: Năm 1979, khi anh lớn lên và lập gia đình được 01 năm thì cha mẹ anh là ông Nguyễn Văn Hoanh, bà Nguyễn Thị Đầm cho ra riêng. Năm 1980, ông Nguyễn Văn Long (chú của anh) cùng vợ là bà Trần Thị Mền cho cha mẹ anh 32 cao đất bưng và cha mẹ anh cho lại vợ chồng anh khai khẩn và sử dụng từ đó đến nay. Trong quá trình sử dụng, anh có đóng tiền đầu mẫu cho phần đất đó tại tập đoàn 23 với số tiền 30.000 đồng vào ngày 28/5/1991 và sau này anh đi đăng ký đê được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ai tranh chấp. Riêng số tiền đền bù giải tỏa, bà Đầm đã nhận, anh có đến ủy ban nhân dân xã hỏi thì cán bộ địa chính lúc bấy giờ cho biết có sự nhầm lẫn và khuyên anh bỏ qua, anh thấy số tiền không lớn và vì tình cảm mẹ con nên không tranh chấp.

Anh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Đầm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Ánh trình bày: chị thống nhất với lời trình bày của anh Minh, không bổ sung gì thêm.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 122/2010/DS-ST ngày 14/9/2010, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đầm do chị Nguyễn Thị Chon đại diện.

Buộc anh Nguyễn Văn Minh, chị Nguyễn Thị Ánh cùng các con Nguyễn Văn Nhựt, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Văn Vũ, Nguyễn Hoài Phương, Nguyễn Thị Ngọc Hoa, Vũ Thị Loan phải trả cho bà Ngyễn Thị Đầm diện tích đất 2.432mthuộc thửa 547, tờ bản đồ số 27 do anh Nguyễn Văn Minh đứng tên trên giẩy chứng nhận quyền sử dụng đất có vị trí như sau:

- Đông giáp đường quy hoạch dài 50m.

- Tây giáp thửa 416 dài 43m.

- Nam giáp thửa 449, 450 dài 44m.

- Bắc giáp thửa 452 dài 40m.

Kiến nghị ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa thu hồi diện tích 2.432m2 thuộc thửa 547, tờ bản đồ số 27 do anh Nguyễn Văn Minh đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Bà Nguyễn Thị Đầm có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Buộc bà Nguyễn Thị Đầm phải trả cho anh Nguyễn Văn Minh, chị Nguyễn Thị Ánh giá trị cây trồng trên đất là 3.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tiền lãi, chi phí định giá, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/9/2010, anh Nguyễn Văn Minh có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 63/2011/DS-PT ngày 11/3/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Văn Minh.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 122/2010/DS-ST ngày 14/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa.

Xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đầm về việc buộc anh Nguyễn Văn Minh phải trả lại 2.432m2thuộc thửa 547, tờ bản đồ số 27, tọa lạc tại xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về chi phí định giá, án phí và việc thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/9/2011, chị Nguyễn Thị Chon là đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Đầm có đơn đề nghị kháng nghị đối với bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do diện tích đất trên là của bà Nguyễn Thị Đầm và ông Nguyễn Văn Hoanh, bà Đầm đã được ủy ban nhân dân xã Mỹ Hạnh Bắc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời vào năm 1991, sau đó bà Đầm cho anh Nguyễn Văn Minh mượn canh tác nhưng anh Minh tự ý đăng ký đế được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại Quyết định kháng nghị số 35/2014/KN-DS ngày 22/02/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm sổ 63/2011/DS-PT ngày 11/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 122/2010/DS-ST ngày 14/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm nhân dân sát tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Bà Nguyễn Thị Đầm khởi kiện yêu cầu anh Nguyễn Văn Minh (là con của bà Đầm) phải trả lại cho bà diện tích đất 2.432m2 thuộc thửa số 547, tờ bản đồ số 27, tọa lạc tại ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An vì cho rằng bà đã được úy ban nhân dân xã Mỹ Hạnh Bắc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời vào năm 1991, bà chỉ cho anh Minh mượn canh tác chứ không cho luôn nhưng anh Minh tự ý kê khai đăng ký quyền sử dụng đất.

Anh Nguyễn Văn Minh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đầm vì cho rằng đã được ông Nguyễn Văn Hoanh và bà Nguyễn Thị Đầm (là cha mẹ của anh Minh) cho diện tích đất tranh chấp từ năm 1980; quá trình sử dụng đất, anh Minh có đóng tiền đầu mẫu vào năm 1991, kê khai đăng ký và đã được ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 27/9/2005.

Xét thấy, các đưcmg sự đều thống nhất xác định nguồn gốc diện tích đất tranh chấp 2.432m2 là của vợ chồng ông Nguyễn Văn Long và bà Trần Thị Men.

Ông Long, bà Mền để lại cho ông Nguyễn Văn Hoanh và bà Nguyễn Thị Đầm canh tác từ năm 1980. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Đầm và anh Nguyễn Văn Minh có lời khai mâu thuẫn nhau về người trực tiếp sử dụng đất. Bà Nguyễn Thị Đầm cho rằng vợ chồng bà Đầm canh tác đất từ năm 1980 cho đến khi chồng bà Đầm là ông Nguyễn Văn Hoanh chết vào năm 1991; sau khi ông Hoanh chết, bà Đầm cùng con gái là chị Nguyễn Thị Chon tiếp tục canh tác; đên năm 2000, chị Chon đi lấy chồng thì bà Đầm mới cho anh Nguyễn Văn Minh mượn đât canh tác. Còn anh Nguyễn Văn Minh thì cho rằng anh Minh canh tác đất từ năm 1980. Mặt khác, theo lời khai của một số nhân chứng ở địa phương như ông Ngô Công Minh, ông Nguyễn Ngọc Anh, ông Phạm Văn Tư, ông Nguyễn Văn Xành thì phần đất tranh châp trước đây được đưa vào Tập đoàn 23, ấp Tràm Lạc. Vì vậy, cần phải xác minh làm rõ diện tích đất tranh chấp có đưa vào tập đoàn sản xuất hay không? Neu có thì sau khi tập đoàn tan rã, đất được giao lại cho ai sử dụng?

Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Đầm cung cấp “Giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất bưng” do Uy ban nhân dân xã Mỹ Hạnh Băc cấp năm 1991. Vì vậy, cần xác minh làm rõ việc cấp giây chứng nhận này dựa trên cơ sở nào, quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có theo đúng quy định của pháp luật hay không?

Năm 2005, anh Nguyễn Văn Minh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên cũng cần phải làm rõ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Minh có theo đúng trình tự, thủ tục luật định không vì trong đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất đề ngày 01/7/2005, anh Minh khai nguồn gốc sử dụng đât là cha mẹ cho nhưng bà Nguyễn Thị Đầm không thừa nhận và trong hồ sơ cũng không có tài liệu nào thể hiện ông Nguyễn Văn Hoanh, bà Nguyễn Thị Đầm có cho anh Minh đất.

Tuy chưa thu thập tài liệu về những vấn đề nêu trên nhưng Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định đất tranh chấp đã đưa vào tập đoàn, anh Nguyễn Văn Minh đã đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đât là đúng quy định của pháp luật, từ đó bác yêu câu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ cơ sở. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng diện tích đất mà anh Minh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng chính là diện tích đất mà bà Đầm được cấp giấy chứng nhận quyền dụng tạm thời năm 1991, từ đó buộc anh Minh trả lại phần đất tranh châp cho bà Đầm cũng là chưa đủ căn cứ.

Do đó, cần chấp nhận kháng nghị trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thâm nêu trên, giao hô sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Trong trường họp sau khi đã xác minh làm rõ những vấn đề nêu trên, nếu không có cơ sở xác định ông Nguyễn Văn Hoanh và bà Nguyễn Thị Đầm đã cho anh Nguyễn Văn Minh phần đất tranh chấp thì khi xét xử lại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cần buộc anh Minh trả lại 2.432m2 đất cho bà Đầm nhưng phải xem xét công sức bảo vệ, tôn tạo làm tăng giá trị đất của anh Minh đế bảo đảm quyền lợi cho anh Minh.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ khoản 2 Điều 291 và khoản 3 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

-                     Chấp nhận kháng nghị số 35/2014/KN-DS ngày 22/02/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

-                     Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 63/2011/DS-PT ngày 11/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Bản án dân sự sơ thẩm số 122/2010/DS-ST ngày 14/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Đầm với bị đơn là anh Nguyễn Văn Minh và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác.

 

 
Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 155/2014/DS-GĐT NGÀY 18/04/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án