QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 183/2013/DS-GĐT NGÀY 12/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐÒI NHÀ CHO Ở NHỜ

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 12/5/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thấm vụ án dân sự “Tranh chấp đòi nhà cho ở nhờ” giữa các đưong sự:

Nguyên đơn: Ông Phạm Văn Tỉnh, sinh năm 1930 và bà Nguyễn Thị Gió,sinh năm 1940;

Cùng trú tại : số 056 Quốc lộ 1A, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Bà Mai Thị Tèo, sinh năm 1949;

Trú tại: số 058 Quốc lộ 1A, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1-Anh Phạm Văn Hoàng, sinh năm 1974;

2-Chị Lê Thị Lan Ngọc, sinh năm 1974;

3- Chị Phạm Thị Minh Thùy, sinh năm 1978;

Cùng trú tại: số 058 Quốc lộ 1A, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Theo Quyết định kháng nghị số 128/QĐKNGĐT-V5 ngày 08/11/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 192/2012/DS-PT ngày 10/10/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

NHẬN THẤY

Theo Đon khởi kiện ngày 08/06/2005 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn — ông Tỉnh, bà Gió trình bày:

Ngày 21/07/1972, vợ chồng ông bà có nhận sang nhượng một lô đất có diện tích 1019 m2 (1 Om X 101,9m), tại số địa bộ cũ 87, số địa bộ mới 247, lô số 1, bản đồ EM16 xã An Lộc, quận Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh (nay là phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai) của bà Huỳnh Kim Liễu với giá 200.000đ. Đến ngày 15/03/1973, ông xin tách phần đăng ký cộng hữu và ngày 08/12/1973, ông được Tỉnh trưởng tỉnh Long Khánh đồng ý cho ông mở garage sửa chữa xe hơi tại thửa đất địa bộ EM 16 (cổng số 2) lấy tên “Minh Hiệp”, đồng thời ông xây dựng phân xưởng, nhà ở và đưa cha mẹ và các em về chung sống. Vì trong gia đình có đông anh em và chưa có nhà nên ông xây ngăn ra nhiều phòng để tiện việc sinh hoạt cho từng gia đình. Cụ thể, gia đình ông Phạm Văn Thụy (bà Mai Thị Tèo) ở căn đầu tiên, tiếp đến là gia đình ông Phạm Văn Thúy, kế tiếp là gia đình ông, còn cha mẹ và các em: Phạm Thị Quý, Phạm Văn Học, Phạm Thị Hóa chưa lập gia đình nên cùng ở trên gác. Thu nhập chính của gia đình dựa vào garage do các anh em cùng làm, giao cho cô Quý quản lý sổ sách, tiền bạc thu, chi trong garage và toàn bộ chi phí trong gia đình.

Sau giải phóng năm 1975, để thuận tiện cho việc mua nhu yếu phẩm, nên từng gia đình trong anh em làm hộ khẩu riêng. Cụ thể gia đình ông bà ở số nhà 056, cha mẹ cùng các em: Quý, Học, Hóa ở số nhà 057, gia đình ông Thụy ở số nhà 058, gia đình ông Thúy ở số nhà 059. Năm 1978, ông Thụy bị tai nạn giao thông chết, vợ ông Thụy là bà Mai Thị Tèo, cùng các con vẫn sống trong căn nhà trên. Năm 1990, ông bà được Ty Xây dựng tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyên sở hữu căn nhà 056, sau đó các em của ông có điều kiện mua nhà ra ngoài ở riêng và đều giao trả lại nhà cho vợ chồng ông. Riêng bà Tèo (vợ ông Thụy) tuy đã mua được đất, nhà nhưng không chịu trả nhà cho ông bà, mặc dù ông bà đã yêu cầu bà Tèo rất nhiều lần. Vì vậy, năm 2001, ông bà đã làm đơn yêu cầu Khu phố 4, phường Xuân Bình can thiệp để bà Tèo trả căn nhà trên, nhưng bà Tèo vẫn không trả. Do đó, năm 2005, ông bà đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Tèo trả lại nhà cho ông bà. Nay ông bà vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình, đề nghị Tòa án buộc bà Mai Thị Tèo phải giao trả lại căn nhà trên cho ông bà và không đồng ý bồi hoàn bất kỳ khoản tiền nào cho bà Tèo, kể cả phần nhà bà Tèo đã sửa chữa.

Bị đơn — bà Mai Thị Tèo, do chị Phạm Thị Ngọc Dung đại diện trình bày:

Chị là con ruột của bà Mai Thị Tèo và ông Phạm Văn Thụy, ông Phạm Văn Tỉnh là bác ruột, bà Nguyễn Thị Gió là bác dâu.

Năm 1972, ông bà nội của chị là cụ Phạm Văn Chỉnh và cụ Vũ Thị Ngoạt có mua 01 lô đất tại Quốc lộ I, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh để mở garage sửa chữa xe ô tô lấy tên là “Minh Hiệp”, khi mua do không đủ tiền nên mẹ chị là bà Tèo có mượn của ông bà ngoại chị 70.000đ đưa cho cha chị là ông Thụy phụ tiền với ông bà nội mua đất nhưng không làm giấy tờ gì. Sau khi sang nhượng đất ông, bà nội chị cùng các con trong gia đình đứng ra xây dựng xưởng sửa chữa xe hơi và xây dựng từng phòng cho từng gia đình ở để tiện việc sinh hoạt. Gia đình chị ở căn đầu tiên là số nhà 058, kế tiếp là gia đình chú Thúy ở số nhà 059, ông bà nội và chú Học ở số nhà 057, phòng cuối là gia đình ông Tỉnh ở số nhà 056. Vì mẹ chị là dâu trong nhà nên ngoài công việc nội trợ ra không tham dự vào công việc làm ăn của gia đình chồng. Do vậy, việc gia đình chồng nhận sang nhượng lô đất trên của ai? Bao nhiêu tiền? mẹ chị đều không được biết, tuy nhiên sau khi xây dựng xưởng và nhà thì ông bà nội chị có cho cha mẹ chị một phòng để ở (tức là căn nhà số 058 hiện nay). Việc cho trên chỉ nói miệng chứ không có giấy tờ gì.

Ngày 18/02/1983, mẹ chị được Ty Xây dựng tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu căn nhà nói trên và mẹ chị cũng đã thực hiện nghĩa vụ đóng thuế nhà, đất đầy đủ từ năm 1992 cho đến nay. Năm 1999, do căn nhà xuống cấp nên mẹ chị đã sửa chữa lại một phần, đến năm 2001 thì xây thêm 02 bức tường, việc này ông Tỉnh đều biết nhưng không có ý kiến gì. Qua yêu cầu khởi kiện của ông Tỉnh, bà Gió, chị nhận thấy yêu cầu này là không có cơ sở, nên không đồng ý giao trả nhà, đất cho ông Tỉnh, bà Gió.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do chị Phạm Thị Minh Thùy đại diện trình bày:

Anh Phạm Văn Hoàng và chị là con bà Mai Thị Tèo, chị Lê Thị Lan Ngọc là con dâu, hiện có hộ khẩu và chung sống với bà Tèo tại căn nhà 058, Quốc lộ 1, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh. Chị cho rằng căn nhà trên được mẹ kể lại là do ông bà nội cho cha mẹ từ năm 1973 cho đến nay, năm 1983 được Ty Xây dựng tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà do mẹ chị đứng tên.

Nay ông Tỉnh, bà Gió có đơn kiện ra Tòa án yêu cầu mẹ chị giao trả căn nhà trên là không có cơ sở nên không đồng ý.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2007/DSST ngày 30/01/2007, Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn Tỉnh, bà Nguyễn Thi Gió.

Buộc bà Mai Thị Tèo, anh Phạm Văn Hoàng, chị Phạm Thị Minh Thùy, chị Lê Thị Lan Ngọc phải trả lại cho ông Phạm Văn Tỉnh và bà Nguyễn Thị Gió căn nhà xây cấp 4, diện tích 51,42 m2 và diện tích đất 222,3 m2 được giói hạn bởi các cột mốc 3,4,5,8,9,10,11,1) cùng tọa lạc tại 058, Quốc lộ I, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, có vị trí tứ cận (Đông giáp Quốc lộ I, Tây giáp đất ông Tỉnh, Nam giáp đất ông Đạt, ông Thuận, Bắc giáp đất bà Đào) tại tờ bản đồ số 19, thửa đất 57 thuộc diện tích 886,3 m2 do ông Phạm Văn Tỉnh đứng tên.

Buộc ông Phạm Văn Tỉnh, bà Nguyễn Thị Gió hoàn giá trị xây dựng thêm, sửa chữa căn nhà số 058 Quốc lộ I, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh cho bà Mai Thị Tèo với số tiền là 13.366.080 đồng.

Bà Mai Thị Tèo, anh Phạm Văn Hoàng, chị Phạm Thị Minh Thùy và chị Lê Thị Lan Ngọc được quyền lưu trú tại căn nhà 058 Quốc lộ I, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh 6 tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 12/02/2007, bà Tèo, anh Hoàng, chị Thùy, chị Ngọc có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 145/2007/DSPT ngày 26/06/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định: Chấp nhận kháng cáo của bà Tèo, anh Hoàng, chị Thùy, chị Ngọc, sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm.

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn Tỉnh và bà Nguyễn Thị Gió đối với bà Mai Thi Tèo về việc “Kiện đòi tài sản”. Bà Mai Thị Tèo được sở hữu căn nhà số 058 Quốc lộ I, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Tạm giao diện tích 222,3 m2 đất (cả đất nhà 058) cho bà Mai Thị Tèo được quản lý sử dụng giới hạn bởi các mốc: 3,4,5,8,9,12,13 và 3, thửa đất số 57 tờ bản đồ sổ 19 phường Xuân Bình, trong đó diện tích nằm trong lộ giới là 59,7 m2, diện tích còn lại là 162,6 m2, có tứ cận (như án sơ thẩm nêu trên - Theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 01/08/2006 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã Long Khánh). Khi Nhà nước có Quyết định quy hoạch giải tỏa diện tích nằm trong lộ giới thì bà Tèo phải thi hành.

Bà Tèo liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xin Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Tỉnh, bà Gió có đơn khiếu nại Bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 143/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 23/11/2007,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 145/2007/DSPT ngày 26/06/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xử hủy Bản án dân sự phúc thấm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2007/DSST ngày 30/01/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 379/2007/DS-GĐT ngày 26/12/2007, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận Quyết định kháng nghị nêu trên của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2010/DSST ngày 24/09/2010, Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn Tỉnh, bà Nguyễn Thị Gió đối với bà Mai Thị Tèo về việc kiện “Đòi nhà cho ở nhờ”. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 04/10/2010, ông Tỉnh, bà Gió có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 192/2012/DS - PT ngày 10/10/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

Chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn Tỉnh và bà Nguyễn Thị Gió.

Buộc bà Mai Thị Tèo, anh Phạm Văn Hoàng, chị Phạm Thị Minh Thùy, chị Lê Thị Lan Ngọc phải trả lại cho ông Phạm Văn Tỉnh và bà Nguyễn Thị Gió căn nhà xây cấp 4, diện tích 51,42 m2 và diện tích đất 222,3 m2 , được giới hạn bởi các cột mốc (3,4,5,8,9,10,11,1 và 3) tại thửa 57, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại số 058, QL 1, p. Xuân Bình, TX. Long Khánh với vị ữí tứ cận:

+ Đông giáp Quốc lộ I.

+ Tây giáp đất ông Phạm Văn Tỉnh.

+ Nam giáp đất ông Nguyễn Đức Đạt và ông Lê Văn Thuận.

+ Bắc giáp đất bà Nguyễn Thị Đào, thuộc diện tích đất 886,3 m2 do ông Phạm Văn Tỉnh đứng tên kê khai đăng ký.

Buộc ông Phạm Văn Tỉnh, bà Nguyễn Thị Gió hoàn trả giá trị xây dựng thêm, sửa chữa căn nhà 058, QL I, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh cho bà Mai Thị Tèo với số tiền là: 13.366.080đ.

Về án phí: Ông Tỉnh và bà Gió phải chịu 668.304đ án phí dân sự sơ thẩm, số tiền này được cấn trừ vào số tiền 750.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 000379 ngày 17/10/2005. Hoàn trả cho ông Tỉnh, bà Gió số tiền 81.696đ còn thừa và 200.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai số 0000576 ngày 04/10/2010 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Long Khánh.

Bà Mai Thị Tèo phải chịu 31.491.024đ án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Mai Thị Tèo, anh Phạm Văn Hoàng, chị Phạm Thị Minh Thùy và chị Lê Thị Lan Ngọc được quyền lưu trú tại căn nhà 058, QL I, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh 06 (Sáu) tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 21/12/2012 Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Công văn số 2672/BC—VKS—P5 gửi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm. Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tổ chức giám sát quá trình giải quyết vụ án. Ngày 24/09/2013, Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ban hành Báo cáo giám sát số 590/BC-HĐND, trong đó xác định việc giải quyết vụ án trên có nhiều bất cập, không có tài liệu nào xác định ông Tỉnh cho gia đình bà Tèo ở nhờ, việc xác định tách khẩu làm giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho bà Tèo để được cấp nhu yếu phẩm là không có căn cứ vì hộ khẩu của gia đình bà Tèo được tách từ năm 1976. Việc tính án phí trong quan hệ tranh chấp đòi nhà là không đúng. Năm 2012 giải quyết vụ án nhưng lấy kết quả định giá năm 2006 để giải quyết là không đúng.

Tại Quyết định kháng nghị số 128/QĐKNGĐT—V5 ngày 08/11/2013, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 192/2012/DS - PT ngày 10/10/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2010/DSST ngày 24/09/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai: giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định như sau:

“Ông Phạm Văn Tỉnh, ông Phạm Văn Thụy (là chồng của bà Mai Thị Tèo), bà Phạm Thị Quý, ông Phạm Văn Thúy là anh em ruột có chung nghề sửa chữa ô tô, xe máy và mở cơ sở sửa chữa chung, trong đó ông Tỉnh là người đứng tên chủ cơ sở, bà Quý là người quản lý tài chính của gia đình, ông Thụy, ông Thúy là người làm trong xưởng sửa chữa, bà Tèo là nội trợ. Năm 1973, ông Tỉnh giao cho bà Quý tìm mua địa điểm để xây dựng nhà xưởng, toàn bộ giấy tờ mua đất đều đứng tên vợ chồng ông Tỉnh. Sau khi mua đất đã xây dựng 4 căn nhà để ở, trong đó nhà số 056 gia đình ông Tỉnh ở, nhà số 057 cha mẹ ông Tỉnh ở, nhà 058 gia đình ông Thụy, bà Tèo ở, nhà số 059 gia đình ông Thúy ở. Năm 1976, gia đình ông Thụy được đăng ký nhân khẩu, trong đó ông Thụy là chủ hộ, các thành viên khác là vợ và con ông Thụy. Năm 1977, gia đình ông Tỉnh được cấp sổ hộ khẩu. Ông Tỉnh là chủ hộ, các thành viên là vợ và con ông Tỉnh. Năm 1978, ông Thụy chết do tai nạn giao thông, năm 1983 bà Tèo được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu căn nhà số 058 trong đó diện tích xây dựng là 35 m2, diện tích đất vườn 115 m2, năm 1990 ông Tỉnh được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà 056 trong đó diện tích xây dựng là 100 m2, diện tích đất vườn là 100 m2, ông Tỉnh không khiếu nại.

Như vậy, mặc dù vợ chồng ông Tỉnh đứng tên trong các giấy tờ về đất, nhưng tài sản trên đất không biết ai bỏ tiền ra xây dựng, ông Tỉnh không có tài liệu nào chứng minh mình đã cho gia đình bà Tèo ở nhờ, giữa ông Tỉnh với chồng bà Tèo có quan hệ là anh em ruột, có làm ăn chung, gia đình bà Tèo đã ở trên đất từ năm 1973, năm 1976 đã tách khẩu riêng, năm 1983 bà Quý là người quản lý tài chính của anh em ông Tỉnh đã đi làm thủ tục cấp quyền sở hữu nhà cho bà Tèo, theo bà Quý là có bàn bạc với ông Tỉnh, nhưng ông Tỉnh không phản đối. Ông Tỉnh có đăng ký kê khai cấp quyền sở hữu nhà mình đang ở nhưng không kê khai phần nhà do bà Tèo đang quản lý sử dụng. Do đó, Tòa cấp sơ thẩm căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà của bà Tèo để không chấp nhận yêu cầu của ông Tỉnh là có căn cứ. Tuy nhiên, theo giấy chứng nhận này, diện tích đất bà Tèo được sử dụng chỉ có 150 m2, trong khi đó thực tế bà Tèo đang sử dụng 222,3 m2.

Tòa cấp sơ thẩm lại không xác định diện tích đất cụ thể bà Tèo được sử dụng là không giải quyết triệt để vụ án. Còn Tòa cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào giấy tờ đất đứng tên ông Tỉnh và lời khai của ông Tỉnh, bà Quý cho rằng việc tách khẩu chỉ nhằm mục đích được mua nhiều nhu yếu phẩm trong thời kỳ bao cấp để chấp nhận yêu cầu đòi nhà của vợ chồng ông Tỉnh, buộc bà Tèo và các thành viên trong gia đình bà Tèo phải trả lại cho ông Tỉnh toàn bộ nhà đất là không đúng, không phù họp với các tình tiết khách quan của vụ án.

Mặt khác, sau khi có quyết định giám đốc thẩm, ngày 16/07/2010, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành định giá lại toàn bộ nhà đất đang tranh chấp trong đó giá trị tài sản trên đất trên 200 triệu. Nhưng khi giải quyết lại lấy kết quả định giá ngày 21/07/2006 có giá trị tài sản trên đất 29.212.382 để giải quyết là không phù hợp.

Ngoài ra, ông Tỉnh khởi kiện yêu cầu bà Tèo phải trả lại nhà cho ở nhờ, theo hướng dẫn tại Điều 17 Nghị quyết số 01/2012/NQ - HĐTP ngày 13/06/2012 đây là tranh chấp không có giá ngạch, nhưng Tòa cấp phúc thẩm xử buộc bà Tèo phải chịu 31.491.024đ án phí dân sự sơ thẩm là không đúng.”

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 12/5/2014, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên các nội dung nêu trong Quyết định kháng nghị. Đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị nêu trên của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì nguyên đơn là ông Phạm Văn Tỉnh và vợ là bà Nguyễn Thị Gió khởi kiện với yêu cầu bị đơn là bà Mai Thị Tèo phải trả lại căn nhà số 058 mà ông Tỉnh, bà Gió đã cho vợ chồng bà Tèo ở nhờ từ năm 1973. Để chứng minh về nguồn gốc đất, ông Tỉnh, bà Gió xuất trình các tài liệu: Tờ bán đất ngày 21/7/1972 (BL14), theo đó bà Huỳnh Kim Liễu chuyển nhượng 1000m2 đất tại sổ địa bộ số 87 - tờ bản đồ EM16 tọa lạc tại xã Xuân Lộc, quận Xuân Lộc cho ông Tỉnh, bà Gió với giá 200.000 đồng; Sao lục họa đồ ngày 21/8/1972 (BL16) với diện tích đất ông Tình, bà Gió nhận chuyển nhượng là 984,3m2. Theo Sao lục họa đồ này và theo Trích lục địa bộ ngày 15/3/1973 (BL11), Sao lục họa đồ ngày 15/3/1973 (BL12) của Trưởng ty điền địa tỉnh Long Khánh, Trích lục địa bộ tạm (BL13) thì diện tích đất nhận chuyển nhượng của ông Tỉnh, bà Gió là 1.019m2 tọa lạc tại xã An Lộc, quận Xuân Lộc,
tỉnh Long Khánh, về nhà, gara xây dựng trên diện tích đất nêu trên, ông Tỉnh, bà Gió xuất trình Văn bản số 3355/KT-PT ngày 26/5/1972 (BL17) và Văn bản số 6425/KT-PT ngày 08/12/1973 (BL20) của Tỉnh trưởng tỉnh Long Khánh với nội dung cho phép ông Tỉnh được dời và thiết lập gara sửa xe hơi tại thửa đất EM 16 (cổng số 2) Quốc lộ 1 Long Khánh, đồng thời xuất trình Phiếu ngày 29/11/1973 của ủy ban xã Xuân Lộc (BL21a); Sơ đồ vị trí xây cất nhà (BL21g); Họa đồ xây cất gara (BL21h). Theo ông Tỉnh, bà Gió thì sau khi xây dựng gara và nhà, ông Tỉnh đã đưa cha mẹ và các em về ở, ngăn ra từng phòng, trong đó vợ chồng ông Thụy, bà Tèo ở căn đầu tiên thuộc văn phòng gara, sau này là nhà 058. Các em của ông là ông Thúy, ông Học, bà Quý, bà Hóa đã trả nhà cho ông, bà. Riêng bà Tèo, tuy mua được đất ở nơi khác nhưng không trả lại nhà cho ông bà. Vì vậy, năm 2001, ông bà đã đòi nhà, sau đó ông bà đã khởi kiện ra Tòa án với yêu cầu bà Tèo phải trả lại nhà 058 cho ông, bà. Còn bà Tèo thì cho rằng nguồn gốc đất, nhà mà Ông Tỉnh, bà Gió trình bày như trên là không đúng vì nguồn gốc đất này là do cha mẹ ông Tỉnh đứng ra mua, gara và nhà là do các cụ xây, ông Tỉnh chỉ đại diện đứng tên thay hai cụ, vợ chồng bà còn góp 70.000 đồng cho gia đình nhà chồng mua đất, làm nhà. Sau khi xây xong nhà, các cụ chia nhà cho các con, trong đó có chồng bà. Căn cứ vào trình bày của các đương sự như đã nêu ở trên thì các bên không tranh chấp về vị trí đất, nhà, đều thừa nhận nhà, đất tranh chấp nay tọa lạc tại phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, để giải quyết toàn diện và triệt để vụ án về nội dung này, tránh khiếu nại về sau thì lẽ ra sau khi Tòa án cấp sơ thẩm có Công văn số 79 ngày 08/8/2006 gửi Phòng Tài nguyên và môi trường thị xã Long Khánh (BL135) hỏi về việc diện tích đất 1000m2 ông Tỉnh, bà Gió nhận chuyển nhượng của bà Liễu ngày 21/7/1972 tại Bản đồ EM16 có phải là 1000m2 đất hiện nay ông Tỉnh, bà Gió đang quản lý, sử dụng tại thửa 056 - Quốc lộ 1, phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai hay không thì cần phải có phúc đáp của Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Long Khánh nhưng trong hồ sơ vụ án này không có văn bản trả lời của Phòng

về nội dung nêu trên. Đây là thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án. Đồng thời căn cứ vào các tài liệu do ông Tỉnh, bà Gió xuất trình về nguồn gốc đất, về gara và nhà xây dựng trên đất, lẽ ra Tòa án các cấp phải xác minh làm rõ địa danh xã An Lộc với xã Xuân Lộc vàothời điểm bà Liễu chuyển nhượng đất cho ông Tỉnh, bà Gió có phải là một không và nay có phải là phường Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai hay không? bởi vì theo Tờ bán đất ngày 21/7/1972 thì bà Liễu chuyển nhượng đất cho ông Tỉnh, bà Gió tại xã Xuân Lộc, quận Xuân Lộc, trong khi đó theo các sao lục họa đồ, trích lục địa bộ như đã dẫn ở trên thì đất chuyển nhượng lại thuộc xã An Lộc, quận Xuân Lộc.

về quá trình kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và việc đóng thuế sử dụng đất của các bên thì thấy: trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án các cấp, ông Tỉnh cho rằng ông đã kê khai, đăng ký sử dụng 1000m2 đất đã nhận chuyển nhượng. Trong năm 1992, 1993, 1995, ông đóng thuế đối với 1000m2, sau đó nghe cán bộ địa chính nói phải trừ vào lộ giới một số diện tích đất nên các năm sau ông chỉ đóng thuế đối với 700m , sau này ông chỉ kê khai đăng ký 886,3m2 đất (đã trừ diện tích lộ giới). Còn bà Tèo thì cho rằng ông Tỉnh chỉ kê khai, đăng ký và đóng thuế đổi với 700m2 đất nên mặc nhiên ông Tỉnh thừa nhận phần diện tích đất còn lại thuộc quyền sử dụng của bà. Trong hồ sơ vụ án thể hiện việc kê khai, đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất của ông Tỉnh như sau:

Tại Giấy biên nhận số 80/XB/12/BN ngày 06/4/2000 của Phòng địa chính Long Khánh (BL09) thì hồ sơ kê khai của ông Tỉnh gồm có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất; tờ trình về nguồn gốc đất; giấy đăng ký nhà ở, đất ở... và tại Giấy biên nhận số 1374/VPĐK-QSDĐ ngày 18/4/2005 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (BL10) thì hồ sơ kê khai của ông Tỉnh gồm có đơn xin cấp quyền sử dụng đất; tờ đăng ký xin cấp quyền sử dụng đất... Hồ sơ kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất của bà Tèo được phản ánh tại Giấy biên nhận đăng ký nhà ở, đất ở số 8/XB/18/BN ngày 10/3/2000 của Phòng địa chính Long Khánh (BL62) theo đó hồ sơ đăng ký của bà Tèo gồm có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất; tờ trình về nguồn gốc đất; giấy đăng ký nhà ở, đất ở... và tại Giấy biên nhận hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất ngày 18/4/2005 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (BL63) thì hồ sơ của bà Tèo có đơn xin cấp quyền sử dụng đất, tờ khai đăng ký quyền sử dụng đất... Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án các cấp không thu thập, xác minh các tài liệu này tại các cơ quan đã cấp các giấy biên nhận nêu ữên để làm rõ quá trình kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở của ông Tỉnh, bà Tèo có đúng như ông Tỉnh, bà Tèo đã trình bày hay không, đặc biệt làm rõ diện tích nhà, đất bà Tèo xin kê khai, đăng ký vào năm 2000 và năm 2005 để xác định việc Tòa án cấp sơ thẩm (lần 2) cho bà Tèo được quyền sở hữu căn nhà số 058 trên diện tích đất 223,3m2 là có căn cứ hay không. Đồng thời, Tòa án các cấp chưa xác minh làm rõ việc quy hoạch diện tích làm lộ giới đối với thửa đất của ông Tỉnh là bao nhiêu m2 và có việc cán bộ địa chính nêu việc trừ lộ giới như ông Tỉnh đã trình bày hay không? Ngoài ra cũng cần xác minh có việc vào ngày 06/12/2004 bà Tèo đã rút hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất do đã đăng ký trùng thửa đất của ông Tỉnh, bà Gió hay không, bởi vì theo Công văn số 189/CV-TNMT ngày 11/9/2005 của Phòng Tài nguyên và môi trường thị xã Long Khánh (BL148) có nội dung này, trong khi đó, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 18/5/2011 (BL490), chị Dung - đại diện ủy quyền của bà Tèo cho rằng năm 2000, bà Tèo đã làm hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất, đăng ký nhà ở, đất ở, không có việc năm 2004 bà Tèo rút hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất như Công văn nêu trên của Phòng Tài nguyên và môi trường thị xã Long Khánh đã xác định. Mặt khác, căn cứ vào hồ sơ vụ án hiện có thì thấy Tòa án các cấp chưa tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ về việc ai là người làm hồ sơ đăng ký quyền sở hữu nhà số 056 để ngày 27/4/1990, ông Tỉnh được Sở xây dựng tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3814/CN-SHN? có phải do bà Phạm Thị Quý hay do ông Tỉnh làm? đồng thời thu thập toàn bộ hồ sơ đăng ký này tại cơ quan có liên quan đang lưu giữ, bởi lẽ theo lời khai, trình bày của bà Quý tại Biên bản ngày 11/5/2006 (BL105), Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 30/01/2007 (BL261), Biên bản ngày 10/02/2009 (BL381+382), bà Quý xác nhận bà làm hồ sơ kê khai cho bà Tèo vào năm 1982 là để làm hộ khẩu, làm chung cho tất cả anh em để tách ra thành các số nhà. Vì vậy, cần phải thu thập các hồ sơ này (nếu có) để xác định thời điểm tách ra thành các số nhà là từ năm nào, từ đó xác minh trình bày của bà Quý có đúng không? có mâu thuẫn với việc gia đình bà Tèo trước thời điểm năm 1982 đã được cấp hộ khẩu riêng hay không?

Ngoài ra cũng cần xác minh lời khai của bà Đoàn Thị Vân (vợ ông Học) tại Biên bản ngày 11/5/2006 (BL105) cho ràng bà không ký vào Đơn ngày 29/7/1982 (BL104) của bà Tèo với tư cách là người làm chứng để xác đinh tính xác thực của hồ sơ xin cấp quyền sở hữu nhà của bà Tèo vào năm 1982. Trong trường hợp các đương sự có yêu cầu về việc trưng cầu giám định chữ ký của bà Vân thì Tòa án tiến hành theo quy định của pháp luật.

về việc lập sơ đồ gara, nhà trên diện tích đất có tranh chấp: Theo trình bày của ông Tỉnh, bà Gió và bà Tèo thì căn nhà 058 mà các bên đang tranh chấp ở vị trí đầu tiên, phía Đông giáp nhà 055, phía Tây giáp nhà 060, phía Nam giáp nhà 056 và phía Bắc giáp nhà 059. Căn cứ Sơ đồ vị trí xây cất (BL21g) do ông Tỉnh cung cấp và Sơ đồ vị trí tương đối nhà 056, 058 (BL280) do Tòa án lập không thể hiện vị trí của gara và của nhà? nhà và gara có xây liền khối hay tách riêng? Vị trí của từng căn nhà: 056, 057, 058, 059? diện tích căn nhà 058 do vợ chồng bà Tèo sử dụng thực tế là bao nhiêm m2? là 35m2 như bà Tèo đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà hay chỉ 21m2 (3m X 7m) như ông Tỉnh trình bày?

Mặt khác cũng cần làm rõ vị trí nhà 059 do ông Thúy sử dụng có nằm trong 4 căn phòng được ông Tỉnh ngăn ra vào năm 1973 cho các em sử dụng hay không bởi vì tại Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 10/10/2012 (BL598), ông Tỉnh lại cho rằng nhà 059 không nằm trong khuôn viên đất của ông mua, trước đây ông Thúy ở một căn, sau đã trả lại cho ông, còn nhà 059 hiện nay là do ông Thúy mua. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm phải làm rõ những nội dung này, đồng thời lập Sơ đồ cụ thể.

về việc xác định ai là người bỏ tiền ra mua đất và xây dựng gara, nhà: Theo trình bày của ông Tỉnh, bà Gió; lời khai và trình bày của các em ruột của ông Tỉnh là bà Phạm Thị Quý (BL25+26, 87, 88+91; 105, 259, 381+382); Ông Phạm Văn Học (BL25+26, 44, 93, 134, 259, 312); bà Phạm Thị Hóa (BL25+26, 93, 259); ông Phạm Văn Thúy (BL538, 542) và của những người làm chứng (hàng xóm sát ranh đất của ông Tỉnh) là ông Đoàn Văn Thủ (BL133, 162), bà Trần Thị Án (BL92) thì ông Tỉnh, bà Gió là người bỏ tiền mua đất của bà Liễu và xây dựng gara, nhà cho nên tài sản đất và nhà là của ông Tỉnh, bà Gió. Những người làm chứng khác là ông Tăng Gia Tư (BL172, 180+181), ông Đặng Văn Đôn (BL138) ông Nguyễn Văn Lâm (BL173, 180+181) thì trình bày: không biết ai là người bỏ tiền để sang nhượng đất và xây nhà. Người làm chứng là ông Võ Trí Huệ, tại Tường trình ngày 30/10/2006 (BL178+179) cho rằng cụ Chỉnh, cụ Ngoạt (cha mẹ ông Tỉnh) là người mua đất, xây dựng nhà và chia cho các con. Sau đó, tại lời khai ngày 06/11/2006 (BL177, 180+181), ông Huệ lại xác nhận không biết ai là người bỏ tiền mua đất và làm nhà. Tuy nhiên, tại Tự khai ngày 21/6/2007, ôngHuệ lại cho rằng nhà 058 do bà Tèo đang quản lý, sử dụng là do cụ Chỉnh lập gara, chia cho các con. Như vậy, lời khai của ông Huệ còn có mâu thuẫn nhưng chưa được Tòa án các cấp làm rõ. Trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án, bà Tèo luôn cho rằng cụ Chỉnh, cụ Ngoạt là người bỏ tiền mua đất, xây dựng gara, nhà và chia nhà cho các con, vợ chồng bà có góp 70.000 đồng cho hai cụ nhưng không xuất trình được tài liệu chứng minh. Mặt khác, bà Tèo còn cho rằng năm 1995 sau khi hai cụ mất, trong nội bộ anh em ông Tỉnh đã tranh chấp đất, nhà, đã khiếu nại ra chính quyền địa phương, cơ quan Thanh tra đã giải quyết, sau đó ông Tỉnh đã dàn xếp, thỏa thuận với các em nên các em của ông Tỉnh mới có lời khai xác nhận: đất, nhà là tài sản của ông Tỉnh, bà Gió. Do đó, để xác minh trình bày này của bà Tèo, cần thiết phải thu thập hồ sơ khiếu nại của các em ông Tỉnh vào năm 1995 (nếu có), từ đó xác định đúng nguồn tiền sang nhượng đất và xây dựng gara, nhà là của ông Tỉnh, bà Gió hay của cha mẹ ông Tỉnh. Đồng thời cũng cần xác minh lại Tờ trình ngày 08/10/2005 (BL175+176) của ông Lâm vì ông Lâm xác định ông Tỉnh, ông Thúy, ông Thụy là thợ hướng dẫn, mặt khác, tại Biến bản phiên tòa phúc thẩm ngày 26/6/2007, ông Tỉnh xác nhận trình bày của ông Lâm là đúng, bà Quý là thư ký, giữ tiền cho cụ Chỉnh (BL328).

Tại Kháng nghị số 128/QĐKNGĐT-V5 ngày 08/11/2013, Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tối cao cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sở hữu của bà Tèo để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tỉnh, bà Gió là đúng với lập luận giữa gia đình bà Tèo và ông Tỉnh là làm ăn chung, bà Quý quản lý tài chính của anh em ông Tỉnh, khi làm thủ tục xin cấp quyền sở hữu nhà cho bà Tèo, bà Quý đã bàn bạc với ông Tỉnh, ông Tỉnh không phản đối... Tuy nhiên, nhận định này là chưa có cơ sở thuyết phục bởi vì trong hồ sơ vụ án bà Quý không có lời khai nào có nội dung như trên. Đe có đủ căn cứ giải quyết vụ án thì cần thiết phải thu thập chứng cứ, xác minh làm rõ những nội dung đã được đề cập tại phần trên.

về định giá tài sản: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm (lần 1) đã lập Biên bản định giá tài sản ngày 21/7/2005 (BL128+129), theo đó buộc ông Tỉnh, bà Gió phải thanh toán cho bà Tèo phần giá trị xây dựng thêm, sửa chữa nhà 058 là 13.366.080 đồng. Sau khi Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định giám đốc thẩm số 379/2007/DS-GĐT ngày 26/12/2007, Tòa án cấp sơ thẩm (làn 2) đã thụ lý lại vụ án và lập Biên bản định giá ngày 23/7/2010 (BL400+401), theo đó định giá toàn bộ nhà đất đang có tranh chấp, trong đó giá trị tài sản trên đất là trên 200 triệu đồng nhưng khi giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn căn cứ vào kết quả định giá theo Biên bản định giá ngày 21/7/2005 để buộc ông Tỉnh, bà Gió thanh toán cho bà Tèo phần giá trị xây dựng thêm, sửa chữa nhà 058 với sổ tiền 13.366.080 đồng là không đúng, gây thiệt hại cho bà Tèo.

về án phí dân sự sơ thẩm: Tại đơn khởi kiện, ông Tỉnh, bà Gió yêu cầu bà Tèo phải trả lại nhà cho ở nhờ. Theo hướng dẫn tại Điều 17 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì đây là vụ án dân sự không có giá ngạch, đương sự phải chịu án phí không có giá ngạch đối với tranh chấp về đòi tài sản cho mượn, cho ở nhờ. Tòa án cấp phúc thẩm (lần 2) buộc bà Tèo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 31.491.024 đồng là không đúng quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho bà Tèo.

Ngoài ra, theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 1176/CN-SHN ngày 18/02/1983 của Sở Xây dựng tỉnh Đồng Nai (BL61) thì diện tích đất ở, đất sân vườn bà Tèo được sử dụng là 150m2. Khi Tòa án giải quyết vụ án, bà Tèo không có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án công nhận diện tích đất thực tế bà Tèo đang sử dụng là 223,3m2 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập và xác minh chứng cứ

về hồ sơ đăng ký, kê khai quyền sở hữu, quyền sử dụng đất (như đã nêu ở phần trên) nhưng đã nhận định bà Tèo được quyền sở hữu nhà 058 trên diện tích 223,3m2 đất là không phù họp với quy định của pháp luật. Mặt khác, theo hồ sơ vụ án thì tại đơn khởi kiện, ông Tỉnh, bà Gió yêu cầu bà Tèo phải trả lại căn nhà số 058 mà ông, bà cho ở nhờ nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, ông Tỉnh cũng có yêu cầu bà Tèo phải trả lại căn nhà nêu trên cùng toàn bộ diện tích đất bà Tèo đang quản lý, các đương sự cũng xác định tài sản tranh chấp trong vụ án là nhà và đất. Vì vậy, khi giải quyết lại vụ án này, Tòa án cần làm rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bao gồm những nội dung gì? bà Tèo có yêu cầu phản tố hay không? nội dung phản tố là gì?

Trong khi chưa làm rõ những nội dung có liên quan đến tranh chấp giữa các đương sự như đã nêu ở trên thì việc Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Tỉnh, bà Gió. Còn Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tỉnh, bà Gió đều chưa đủ căn cứ. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ và cần thiết.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

-               Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 128/QĐKNGĐT-V5 ngày 08/11/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

-               Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 192/2012/DS-PT ngày 10/10/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2010/DSST ngày 24/9/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai về vụ án “Tranh chấp đòi nhà ở nhờ” giữa nguyên đơn là ông Phạm Văn Tỉnh,bà Nguyễn Thị Gió với bị đơn là bà Mai Thị Tèo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh, chị: Phạm Văn Hoàng, Lê Thị Lan Ngọc, Phạm Thị Minh Thùy.

 

 
Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 183/2013/DS-GĐT NGÀY 12/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐÒI NHÀ CHO Ở NHỜ TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án