QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 184/2014/DS-GĐT NGÀY 12/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 12/5/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thấm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

Ông Nguyễn Văn Ngọ, sinh năm 1942; trú tại 57 Trần Đình Xu, phường Cầu Kho, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh;

Bị đơn:

Anh Phan Văn Tấn, sinh năm 1971;

Chị Nguyễn Thị Kim Loan (vợ anh Tấn), sinh năm 1976;

Anh Phạm Quang Hiển, sinh năm 1972;

Chị Phạm Thị Kim Trinh (vợ anh Hiển), sinh năm 1978;

Cùng trú tại thôn 3, xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

Theo Kháng nghị tái thẩm số 601/2013/KN-DS ngày 27/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 134/2006/DS-PT ngày 29/12/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện ngày 21/8/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông Nguyễn Văn Ngọ do đại diện được ủy quyền - ông Lê Trần Phú Đức trình bày: Năm 1995, ông Ngọ mua nhà và đất của bà Nguyễn Thị Ngưu với diện tích đất là 1.115,35m2, việc mua bán giữa hai bên được chính quyền địa phương và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng thực. Khi mua, bà Ngưu đã được cấp Giấy đăng ký ruộng đất ngày 06/9/1984 với diện tích đất đăng ký là 1.104m2. Anh Phan Văn Tấn và anh Phạm Quang Hiển là người sử dụng đất liền kề với đất của ông Ngọ theo hướng Nam đã xây nhà, lấn chiếm đất theo chiều ngang dọc Quốc lộ 28 cả hai anh (Tấn và Hiển) là l,52m; theo chiều dài phía sau nhà thì anh Tấn lấn 2,4m, anh Hiển lấn l,05m. Ông Ngọ khởi kiện yêu cầu anh Tấn, anh Hiển phải trả lại phần diện tích đã lấn chiếm cho ông.

Bị đơn - anh Phan Văn Tấn trình bày: Năm 1998, anh mua theo hình thức đấu giá cửa hàng của Họp tác xã mua bán xã Hàm Liêm với diện tích đất là 136,5m2. Ngày 31/12/1998, anh được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích đất nêu trên. Năm 2000, anh chuyển nhượng cho anh Phạm Quang Hiển 78m2 đất và anh Hiển đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này. Hiện nay anh đang sử dụng phần diện tích đất còn lại là 58,5m2.

Ngoài ra, anh còn được bà Huệ là người có đất liền kề với anh cho anh 1,4m đất theo chiều ngang dọc Quốc lộ 28 để sử dụng nhưng việc cho đất không làm giấy tờ.

Vì vậy, anh cho rằng không lấn chiếm đất theo chiều ngang dọc Quốc lộ 28 như ông Ngọ đã trình bày. Anh thừa nhận có lấn đất của ông Ngọ ở phía sau như Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21/7/2006 nên đồng ý trả lại diện tích đất đã lấn chiếm cho ông Ngọ. Mặt khác, anh thừa nhận khi anh Hiển nhận chuyển nhượng 78m2 đất và xây nhà, chính anh là người chỉ mốc giới cho anh Hiển.

Bị đơn - anh Phạm Quang Hiển trình bày: Năm 2000, anh nhận chuyển nhượng 78m2 đất của anh Tấn. Anh đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này. Khi anh xây nhà, anh Tấn đã chỉ mốc giới giáp ranh với nhà ông Ngọ. Anh thừa nhận có lấn phần diện tích đất phía sau của nhà ông Ngọ nên đồng ý được bồi thường bằng tiền đối với giá trị đất đã lấn chiếm như Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21/7/2006. Đối với đất lấn chiếm theo chiều ngang dọc Quốc lộ 28 như đại diện của ông Ngọ trình bày, anh cho rằng anh Tấn xác định ranh giới cho anh nên anh Tấn phải chịu trách nhiệm bồi thường, đồng thời anh thừa nhận đất anh nhận chuyển nhượng có chiều ngang là 5m nhưng khi xây dựng nhà vì đo đạc không chính xác nên hiện trạng nhà anh theo chiều ngang là 5,07m.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2006/DSST ngày 15/9/2006, Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Ngọ về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với anh Phan Văn Tấn và anh Phạm Quang Hiển.

Buộc vợ chồng anh Phạm Quang Hiển và chị Phạm Thị Kim Trinh tháo dỡ nhà ở và giao trả cho ông Nguyễn Văn Ngọ do ông Lê Trần Phú Đức đại diện ủy quyền diện tích đất có chiều rộng giáp Quốc lộ 28 là 1,52m X 15,6m — 23,71m2 và diện tích đất phía sau nhà ông Hiển là 8,24m2. Tổng diện tích giao trả là 31,95m2.

Buộc vợ chồng anh Phan Văn Tấn và chị Nguyễn Thị Kim Loan tháo dỡ nhà ở giao trả Lại cho ông Nguyễn Văn Ngọ do ông Lê Trần Phú Đức đại diện ủy quyền diện tích đất 6,3 5m2 phía sau nhà anh Tấn.

Diện tích đất phải giao trả nêu trên tọa lạc tại thôn 3, xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Có sơ đồ phác họa kèm theo.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 29/9/2006, anh Phan Văn Tấn và chị Nguyễn Thị Kim Loan có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 134/2006/DS-PT ngày 29/12/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận quyết định: Bác kháng cáo của anh Phan Văn Tấn và chị Nguyễn Thị Kim Loan. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2006/DSST ngày 15/9/2006 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí. Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 06/12/2010, anh Phan Văn Tấn và chị Nguyễn Thị Kim Loan có đơn khiếu nại Bản án phúc thẩm nêu trên.

Ngày 26/4/2011, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận có Phiếu số 34/ĐĐBQH-DN chuyển đơn nêu trên của anh Tấn, chị Loan đến Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Ngày 30/12/2011, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận có Công văn số 75/VCĐ-ĐBQH gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị xem xét vụ án này theo thủ tục tái thẩm.

Tại Kháng nghị tái thẩm số 601/2013/KN-DS ngày 27/12/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 134/2006/DS-PT ngày 29/12/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử tái thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2006/DSST ngày 15/9/2006 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa tái thẩm ngày 12/5/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng theo Đơn khởi kiện ngày 24/3/2006 và Bản khai ngày 05/5/2006, ông Ngọ xác định anh Tấn đã lấn chiếm chiều ngang theo Quốc lộ 28 là l,52m, dọc theo thửa đất là 15,6m. Dài phía sau, anh Tấn lấn 2,4m, anh Hiển 1.05m. Ông Ngọ hoàn toàn đồng ý với số liệu trên theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21/7/2006. Tuy nhiên, tại Biên bản làm việc ngày 01/7/2010 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận (khi đã hết thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm) thì ông Ngọ lại xác định khác (anh Hiển lấn sang phần đất nhà ông khoảng 30- 40cm, phía sau không rõ).

Kháng nghị cho rằng Biên bản trên có mâu thuẫn với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21/7/2006 và lời khai của ông Ngọ tại Biên bản ngày 01/7/2010 vói lời khai khi khởi kiện khác nhau là tình tiết mới để kháng nghị theo thủ tục tái thấm là không đúng, không thỏa mãn theo quy định tại Điều 304, khoản 1 Điều 305 Bộ luật tố tụng dân sự. Từ đó, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng tái thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xử không chấp nhận kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì: nguồn gốc thực tế diện tích 1.135,35m2 đất của ông Nguyễn Văn Ngọ là do ông Ngọ nhận chuyển nhuợng của bà Nguyễn Thị Ngưu ngày 08/11/1995 (bà Ngưu đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký ruộng đất ngày 06/9/1984, diện tích là 1.104m2). Hai bên lập giấy bán nhà có xác nhận chính quyền địa phương và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chúng thực. Theo Họa đồ nhà đất lập ngày 23/12/1995 của Phòng
Kinh tế huyện Hàm Thuận Bắc (BL25) thể hiện phần đất có nhà nêu trên diện tích là 1.115,35m2, diện tích đất xây dụng là 78,66m2, đất có tứ cận: Đông giáp nhà ông Cảnh, Tây giáp Quốc lộ 28, Nam giáp Hợp tác xã mua bán, Bắc giáp đất nhà ông Ba Sậy.

Diện tích 136,5m2 đất của anh Phan Văn Tấn đang sử dụng do anh Tấn nhận chuyển nhượng của Cửa hàng hợp tác xã mua bán Hàm Liêm, được ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 31/12/1998 (BL73+74), phía Bắc giáp nhà ông Ngọ nêu trên. Ngày 29/12/1999 anh Tấn chuyển nhượng cho anh Phạm Quang Hiển diện tích 78m2, anh Hiển đã được ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 03/5/2000 (BL75+76) (phần đất anh Hiển mua phía Bắc giáp đất của ông Ngọ).

Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21/7/2006 (BL95+96) thì thửa đất anh Hiển đang sử dụng dư 8,234m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp. Thửa đất của anh Tấn dư 32,25m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp. Theo sơ đồ đo vẽ thẩm định ngày 21/7/2006 (BL97) thì Tòa án chỉ đo vẽ hiện trạng kích thước đất đang sử dụng của anh Hiển, anh Tấn. Tính cả hai thửa đất của anh Hiển và anh Tấn thì phần đất phía Tây (giáp Quốc lộ 28) có chiều ngang là 1 l,02m (dư l,52m), chiều ngang phía Đông 9,6m (dư l,6m) so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất anh Tấn được cấp năm 1998 (phần đất phía sau giáp ao thì anh Hiền, anh Tấn thừa nhận đã lấn sang đất của ông Ngọ).

Trong quá trình giải quyết vụ án, tại Đơn ngày 12/12/2006 (BL156), anh Tấn đề nghị đo tổng thể phần đất của ông Ngọ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đo đạc cả diện tích đất của ông Ngọ để làm rõ phần đất của ông Ngọ đang sử dụng có đúng với kích thước đất mà ông Ngọ nhận chuyển nhượng năm 1995 với bà Ngưu hay không; đồng thời cũng chưa làm rõ lời khai của bà Huệ về việc có cho anh Tấn đất như anh Tấn đã trình bày nên chưa có đủ cơ sở xác định anh Hiền, anh Tấn lấn đất của ông Ngọ phần đất phía Tây kích thước 1,52m, dài 15,6m (phần đất phía Đông cả hai anh thừa nhận có lấn đất của ông Ngọ).

Mặt khác, anh Hiển làm nhà từ năm 2000 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc anh Hiển, anh Tấn tháo dỡ nhà trả lại đất (anh Hiển trả 31,95m2, anh Tấn trả 6,35m2) cho ông Ngọ là ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Bởi lẽ, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 29/12/2006 (BL170) anh Hiển chấp nhận bồi thường bằng giá trị, phần đất ông Ngọ là đất trống, ông Ngọ không có nhu cầu sử dụng (hiện nay ông Ngọ đã bán cho ông Đức).

Tại Biên bản làm việc của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận ngày 01/7/2010, ông Ngọ khai đất của ông có chiều ngang mặt đường Quốc lộ 28 khoảng 19,8m, phía sau khu đất có hình chữ L, đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất của ông Ngọ khi mua của bà Ngưu có sẵn hàng rào dây thép gai sát một bi nước nằm trên đất của ông Ngọ. Hàng rào dây thép gai cách bi nước khoảng 10-20m. Ông Ngọ xác định phần nhà chính của anh Hiển lấn sang phần đất nhà ông khoảng 30-40cm, nhưng phía sau nhà cụ thế bao nhiêu ông không rõ. Cũng tại Biên bản này, ông Ngọ, anh Tấn đề nghị đo lại đất của ông Ngọ để ông Ngọ chỉ ranh giới đất của mình nhưng đến nay cũng chưa được kiểm tra, xem xét diện tích cụ thể của ông Ngọ. Giữa Biên bản xem xét tại chỗ ngày12/6/2008 với Biên bản làm việc nêu trên có mâu thuẫn. Hiện chưa rõ đất của ông Ngọ thực tế là bao nhiêu m2. Đây là tình tiết mới, quan trọng có thể làm thay đổi nội dung của vụ án mà các đương sự không biết đất bị lấn chiếm là bao nhiêu.

Trong khi chưa làm rõ tình tiết mới phát sinh này, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại quyết định đất lấn chiếm nhiều hơn sự thừa nhận của các đương sự là không đủ cơ sở.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 2 Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Kháng nghị tái thẩm số 601/2013/KN-DS ngày 27/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 134/2006/DS-PT ngày 29/12/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2006/DSST ngày 15/9/2006 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Ngọ với bị đơn là các anh, chị: Phan Văn Tấn, Nguyễn Thị Kim Loan, Phạm Quang Hiển, Phạm Thị Kim Trinh.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 184/2014/DS-GĐT NGÀY 12/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án