QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 186/2014/DS-GĐT NGÀY 13/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 13/05/2014 tại trụ sở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 15/2011/DSPT ngày 22/3/2011 của Tòa án nhân dân tính Quảng Ngãi về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, có các đương sự:

Nguyên đơn: Lê Văn Tân, sinh năm 1956 và vợ là Đỗ Thị Xuân Thời (Đỗ Thị Kim Sinh), sinh năm 1962; cùng trú tại 207 Lê Trung Đình, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

Bị đơn: Hà Văn Thọ, sinh năm 1972; trú tại 205 Lê Trung Đình, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Thị Rậu, sinh 1933 (đã chết 16/1/2011);

2. Phan Thị Hồng Lạc, sinh năm 1975;

3. Lê Thị Thêm, sinh năm 1937;

Cùng trú tại 205 Lê Trung Đình, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 01/4/2009 và trong quá trình tố tụng, ông Lê Văn Tân và bà Đỗ Thị Xuân Thời trình bày: Ngày 4/5/1989 ông bà có nhận chuyển nhượng của ông Đỗ Duy Hồng, bà Nguyễn Thị Kim Phượng và bà Đỗ Thị Xuân Ba nhà và đất tại số 207 Lê Trung Đình. Nhà có chiều ngang 5m, chiều dài 28m nằm trên thửa đất có chiều ngang 5m, chiều dài 48m, phần đất phía sau bỏ trống. Gia đình ông Hà VănThọ có nhà đất kế bên ở phía Đông nhà đất của ông đã lấn chiếm 12m2 tại vị trí phía Đông Bắc đất của ông bà. Khi phát hiện đất bị lấn chiếm ông bà đã khiếu nại đến ủy ban nhân dân phường Trần Hưng đạo hòa giải nhưng không thành. Nay ông yêu cầu ông Thọ trả 12m2 đất lấn chiếm.

Bị đơn ông Hà Văn Thọ trình bày: Nhà đất tại số 205 Lê Trung Đình là của cha mẹ ông mua của vợ chồng ông Nguyễn Ấm và bà Nguyễn Thị Nhung vào năm 1974 với diện tích 218m2. Gia đình ông Tân mua nhà 207 Lê Trung Đình của ông Hồng năm 1989, ranh giới đất phía sau của hai gia đình đã có từ thời ông Hồng, ông Hồng đã xây tường bằng táp lô. Ông đã rào bằng cọc sắt và dây kẽm gai. Khi gia đinh ông Tân về ở nhà 207 Lê Trung Đình, gia đình ông Tân đập bỏ bờ tường của ông Hồng xây trước đó và kiện gia đình ông lấn chiếm 12m2. Ông Tân kiện là không có cơ sở, ông không lấn chiếm đất của vợ chồng ông Tân.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Rậu, Phan Thị Hồng Lạc và bà Lê Thị Thêm trình bày: Nhà đất số 205 Trung Đình, thành phố Quảng Ngãi là của gia đình các bà mua từ năm 1974 và sử dụng đên nay. Ranh giới đất hai bên được xác định bởi hàng rào mỗi bên, vợ chồng ông Tân tự đập bỏ bờ rào của mình rồi đi kiện gia đình bà lấn chiếm, gia đình bà không lấn chiếm đất.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2010/DSST ngày 02/7/2010, Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi đã quyết định:

Bác đơn khởi kiện của ông Lê Văn Tân và bà Đỗ Thị Xuân Thời về nội dung: yêu cầu ông Hà Văn Thọ, bà Nguyễn Thị Rậu, bà Lê Thị Thêm và bà Phạn Thị Hồng Lạc phải trả lại cho ông bà 6m2 đất lấn chiêm năm ở phía Đông Bắc nhà đất số 207 Lê Trung Đình, thành phố Quãng Ngãi.

Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

Ngày 15/7/2010 ông Tân, bà Thời có đơn kháng cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 15/2011/DSPT ngày 22/3/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã sửa Bản án sơ thẩm, như sau:

Buộc ông Hà Văn Thọ, bà Lê Thị Thêm, Phan Thị Hồng Lạc phải tháo dỡ hàng rào xây bằng gạch để trả lại cho vợ chồng ông Lê Văn Tân, bà Đỗ Thị Xuân Thời diện tích 6m2 đất nằm ở vị trí phía Đông Bắc nhà đất số 207 phố Lê Trung Đình, thành phố Quảng Ngãi (kèm theo sơ đồ đo vẽ). Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Ông Hà Văn Thọ có đơn đề nghị giám đốc thẩm; ngày 01/4/2013, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi có công văn số 118/THA kiến nghị giám đốc thẩm Bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Kháng nghị số 68/2014/DS-KN ngày 06/3/2014 đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 15/2011/DSPT ngày 22/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2010/DS-ST ngày 02/7/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và đề nghị xử bác yêu cầu của nguyên đơn. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Diện tích đất tranh chấp là 6m2, hình tam giác có cạnh phía Tây dài 13,86m, cạnh phía Đông dài 14,19m, chiều ngang phía sau dài l,06m, là phần đất phía sau tiếp giáp giữa nhà đất của ông Lê Văn Tân tại số 207 phố Lê Trung Đình, thành phố Quảng Ngãi và nhà đất của ông Hà Văn Thọ tại số 205 phố Lê Trung Đĩnh, thành phố Quảng Ngãi, hiện nay do gia đình ông Hà Văn Thọ đang quản lý sử dụng.

Về nguồn gốc nhà đất của gia đình ông Tân: Năm 1989 ông Đỗ Duy Hồng chuyển nhượng cho ông Tân nhà đất mà trước đó ông Hồng nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị Liên. Giấy tờ mua bán không ghi kích thước tứ cận, mà chỉ ghi diện tích chung cả nhà và đất là 188,6m2; nay đo thực tế sử dụng là 192,9m2, nhiều hơn so với giấy chuyển nhượng của ông Hồng là 4,3m2.

Về nguồn gốc nhà đất của ông Thọ: Ngày 20/01/1974 vợ chồng ông Nguyễn Ám chuyển nhượng cho vợ chồng cụ Hà Văn Hoán (là cha của ông Thọ). Giấy tờ mua bán cũng không ghi kích thước tứ cận mà chỉ ghi thửa đất số 116, diện tích 218m2; năm 2003, ông Thọ mua thêm của bà Lê Thị Cúc 23,50mnên tổng diện tích đất của ông Thọ là 241,5m2. Nay diện tích đang sử dụng có cả đất tranh chấp là 222,6m2, là ít hơn diện tích đã nhận chuyển nhượng 18,9m2.

Trong quá trình sử dụng, gia đình cụ Hoán và nay là ông Thọ sử dụng nhà đất ổn định từ năm 1974 cho đến năm 1989 không có tranh chấp với gia đình ông Hồng là hộ liền kề. Năm 1989 ông Tân nhận chuyển nhượng ông Hồng thì năm 1990 ông Tân đã tự xây tường gạch nằm trên phần đất của ông Tân sát hàng rào lưới B40 của gia đình ông Thọ để làm ranh giới đất giữa hai hộ, khi đó không có tranh chấp giữa hai hộ. Năm 1997 ông Tân đập bỏ tường rào nhưng vẫn còn móng tường cũ mà ông Tân đã xây. Như vậy, trong thực tế đất hai nhà được xác định là theo mốc giới tường xây bằng gạch thẻ do ông Tân xây từ năm 1990 và cũng theo mốc giới đó thì trước đây ông Hồng đã ở nhưng không có tranh chấp gì với gia đình cụ Hoán, nên việc ông Tân cho rằng ông Thọ lấn chiếm đất của ông là chưa đủ căn cứ.

Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào thực tể sử dụng đất và ranh giới hình thành từ năm 1990; còn Tòa án cấp phúc thẩm lại căn cứ vào giấy tờ mua bán chuyển nhượng để giải quyết mà không làm rõ sự mâu thuẫn, khác biệt về ranh giới giữa giấy tờ mua bán, chuyển nhượng với thực tế có biến động, đều chưa đủ căn cứ.

Theo biên bản xác minh điều kiện thi hành án ngày 28/2/2012 của Cơ quan thi hành án thì Tòa án cấp phúc thẩm buộc gia đình ông Thọ phải giao cho gia đình ông Tân phần đất mà trên phần đất này có khung nhà tạm và có một phần diện tích công trình phụ là hầm bê tông chứa nước thải sinh hoạt của gia đình ông Thọ được xây dựng trước khi có bản án, nhưng Tòa án câp phúc thâm không xem xét giải quyết là không đảm bảo quyên lợi của ông Thọ và khó khăn cho việc thi hành án. Do đó, cần phải hủy các Bản án sơ thâm và phúc thâm đê xét xử sơ thẩm lại vụ án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị số 68/2014/DS-KN ngày 06/3/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 15/2011/DSPT ngày 22/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thấm số 07/2010/DS-ST ngày 02/7/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Lê Văn Tân, bà Đỗ Thị Xuân Thời (Đỗ Thị Kim Sinh) với bị đơn là ông Hà Văn Thọ và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 186/2014/DS-GĐT NGÀY 13/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án