QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 191/2014/DS-GĐT NGÀY 13/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 13/5/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Dung, sinh năm 1959;

Bị đơn: Ông Phan Xuân Thụ, sinh năm 1944;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Lê Thị Kim, sinh năm 1958.

Các đương sự cùng trú tại tổ 1, khu 11, phường Việt Hưng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Theo Quyết định kháng nghị số 511/2013/KN-DS ngày 31/10/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm 39/2011/DSPT ngày 30/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện ngày 16/5/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Kim Dung trình bày: Năm 1987, bà mua của ông Nguyễn Chiến Thắng một móng nhà trên diện tích đất có chiều rộng bám mặt đường 18A là khoảng 18m, chiều sâu là 16m. Phía Đông của thửa đất giáp đất nhà ông Bắc và được ngăn bằng một bờ ruộng có chiều rộng khoảng 0,7 - 0,8m tại tổ 1, khu 11, phường Việt Hưng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh hiện nay.

Năm 1992, bà nhượng lại cho bà Hằng một gian nhà phía Tây trên diện tích đất có chiều rộng mặt đường 18A là 4m và chiều sâu là 16m. Sau đó bà cắt đất liền kề đất nhà bà Hằng cho anh trai là ông Cường làm nhà với diện tích đất có chiều rộng mặt đường 18A là 4,5m, chiều sâu là 16m. số diện tích đất còn lại bà sử dụng ổn định. Năm 1997, ông Phan Xuân Thụ ở phía sau nhà bà có hỏi mượn đất liền kề bờ ruộng để mở lối đi cho xe chở vật liệu vào nhà (diện tích đất mở rộng lối đi có chiều rộng l,8m và chiều dài 16m). Năm 2003, Nhà nước đo đạc lập bản đồ địa chính thì bà không có nhà, khi về bà có ký xác nhận vào Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất nhưng ngay sau đó bà được biết cơ quan có liên quan không đo số diện tích đất mà bà cho ông Thụ mượn để mở rộng lối đi nên bà yêu cầu đo đạc lại. Năm 2004, khi cán bộ địa chính xuống đo lại thì hộ ông Thụ ở phía sau không ký giáp ranh, từ đó xảy ra tranh chấp. Ông Thụ và bà Kim là người sử dụng lối đi đã liên tục đổ đất lên đường để xóa hiện trạng. Việc tranh chấp được chính quyền địa phương hòa giải và xác nhận ngõ đi chung chỉ rộng lm, còn lại là đất của bà, đồng thời có thông báo đình chỉ việc đổ đất lên ngõ đi, nhưng ông Thụ không chấp hành mà còn cản trở không cho cán bộ địa chính cắm mốc định vị.

Nay bà đồng ý để đường đi rộng l,8m, diện tích đất còn lại có chiều rộng bám mặt đường 18A là Olm và chiều sâu 16m, bà đề nghị Tòa án buộc ông Thụ phải trả lại cho bà diện tích đất là 16 m2.

Bị đơn - ông Phan Xuân Thụ trình bày: Ông khẳng định không mượn đất của bà Dung vì từ khi ông mua nhà đất đã có lối đi như hiện trạng. Năm 1999, bà Dung xây nhà và đã xây tường rào ngăn lối đi chung với nhà đất của bà, không xảy ra tranh chấp. Năm 2003, Nhà nước đo đạc thể hiện tại bản đồ địa chính thì diện tích đất đang tranh chấp là đất công có chiều rộng phía trước là 2,8m và phía trong rộng 3,5m dài khoảng 17 đến 18m. Năm 2004, bà Dung làm bìa đỏ do bị thiếu đất nên đã kiện ông và xóm đòi lại đất. Ông không nhất trí với cách giải quyết của ủy ban nhân dân xã Việt Hưng cũng như đơn kiện của bà Dung.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Lê Thị Kim trình bày: Bà cho rằng từ khi bà mua lại nhà đất của ông Hồ Đình Vạn vào năm 1993 cho đến nay thì con đường vẫn như cũ, không có sự thay đối gì vì trước đây xe công nông vẫn đi lại được và bây giờ xe 24 chỗ của nhà bà vẫn đi lại bình thường. Tháng 10/2004, gia đình bà Dung tự đập tường rào và kiện ông Thụ để đòi đất là không có cơ sở vì đó là đường đi chung. Do đó, bà có đơn yêu cầu độc lập với nội dung: không chấp nhận yêu cầu của bà Dung và công nhận lối đi cho gia đình bà.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày 13/4/2007, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim Dung.

- Buộc ông Phan Xuân Thụ phải trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim Dung 16mđất tại tổ 1, khu 11, phường Việt Hưng, thành phố Hạ Long. Đất có kích thước chiều rộng là lm, chiều dài là 16m, phía Đông giáp ngõ đi vào nhà ông Thụ, phía Tây giáp nhà bà Dung, phía Bắc giáp đường Quốc lộ 18A cũ, phía Nam giáp nhà ông Thụ.

- Không chấp nhận yêu cầu phản tố độc lập của bà Lê Thị Kim.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 23/04/2007, ông Thụ, bà Kim có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 19/2007/DSPT ngày 28/6/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định:

Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày 13/4/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Trả lại đơn khởi kiện cho bà Nguyễn Thị Kim Dung.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Dung có đơn khiếu nại giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 329/2010/KN-DS ngày 24/5/2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 19/2007/DSPT ngày 28/6/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 886/2010/DS-GĐT ngày 23/12/2010, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2011/DSPT ngày 30/12/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định sửa Bản án dân sự sơ thẩm như sau:

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi quyền sử dụng 16m2 đất của bà Nguyễn Thị Kim Dung đối với ông Phan Xuân Thụ.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm bà Nguyễn Thị Kim Dung có đơn đề nghị xem xét lại Bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 511/2013/KN-DS ngày 31/10/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2011/DSPT ngày 30/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

Đồ nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 13/5/2014, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với những nội dung nêu trong Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Đồng thời cho rằng để giải quyết vụ án này thì cần thiết phải đưa Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì theo Thông báo số 31/TB-ƯB ngày 23/9/2011 và Thông báo số 39/TB-UB ngày 30/11/2011 của Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng thì Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng là chủ sử dụng đất giao thông, liên quan đến diện tích đất bà Dung tranh chấp. Theo Công văn số 51/UBND ngày 20/4/2012, Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng đề nghị Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hạ Long đo vẽ và chỉnh lý hồ sơ địa chính giảm 16m2 thửa 50, tờ bản đồ 82 thuộc ủy ban nhân dân phường quản lý để trả lại thửa số 51 tờ bản đồ số 82 của hộ bà Nguyễn Thị Kim Dung là lổm2. Từ đó, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng vào tham gia tố tụng với tư cách nêu trên là không đúng và đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm xử chấp nhận Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo hướng hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2011/DSPT ngày 30/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày 13/4/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Bà Nguyễn Thị Kim Dung khởi kiện yêu cầu ông Phan Xuân Thụ trả lại 16m2 đất (chiều rộng bám mặt đường 18A là Olm, chiều dài 16m) thuộc thửa đất số 51. Theo lời khai của bà Dung thì phần đất tranh chấp nằm trong tổng diện tích 124m2 đất có nguồn gốc do bà nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Chiến Thắng từ tháng 8/1987 (trước đó ông Thắng nhận chuyển nhượng đất từ bà Trần Kim Khánh); năm 1997, ông Phan Xuân Thụ có hỏi mượn và được gia đình bà đồng ý cho ông Thụ được mượn 1 phần đất có diện tích 28,8m2 (chiều rộng bám mặt đường 18A là l,8m, chiều dài là 16m) để mở rộng lối đi cho gia đình ông Thụ lái xe ô tô chở vật liệu vào nhà; ông Thụ đã cam kết khi nào gia đình bà cần sử dụng thì sẽ trả lại. Sau này do nhu cầu sử dụng của gia đình, bà đã nhiều lần yêu cầu ông Thụ trả lại diện tích đất nêu trên nhưng ông Thụ vẫn không thực hiện cam kết. Theo Biên bản làm việc v/v xác định ranh giới ngày 11/8/2005 của Uỷ ban nhân dân xã Việt Hưng (BL7,8), bà Dung đồng ý để lại 0,8m bám mặt đường 18A để mở rộng lối đi cho ông Thụ và yêu cầu ông Thụ phải trả lại 16m2 đất (chiều rộng bám mặt đường 18A là 01m, chiều dài là 16m).

Ông Phan Xuân Thụ không thừa nhận đã mượn đất của bà Dung mà cho rằng lối đi hiện nay gia đình ông đang sử dụng là đúng như hiện trạng từ trước đến nay, ông không đồng ý với yêu cầu của bà Dung.

Xét việc cho mượn đất giữa bà Dung và ông Thụ không có giấy tờ, tuy nhiên theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Những người làm chứng là những người cao tuổi, sống ở địa phương từ trước năm 1972 như ông Đinh Văn Nhận (nguyên Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân xã Việt Hưng) (BL261, 262), ông Nguyễn Gia Việp (Trưởng khu 11) (BL 145), ông Phạm Hồng Tuân (BL 131, 147) có xác nhận, có lời khai xác định nguyên thủy lối đi trước đây vào nhà ông Thụ hẹp chỉ rộng Olm là bờ ruộng, chỉ đi vừa xe cải tiến; khi mẹ ông Thụ chết phải khiêng cụ ra đường Quốc lộ vì xe tang không vào được; tại Giấy ngày 16/11/2004 (BL 141) ông Lê Văn Đoàn xác nhận: cuối năm 1993, ông và ông Hồ Đình Vạn mua chung xe ôtô 26 chỗ để chở khách nhưng do đường vào nhà ông Vạn hẹp xe không vào được nên ông phải gửi xe ở chỗ khác; tại phiên tòa sơ thẩm ngày 13/4/2007 (BL 181), ông Hồ Đình Vạn (là người bán nhà cho bà Lê Thị Kim; hiện nay bà Kim và ông Thụ cùng sử dụng lối đi mà các đương sự đang tranh chấp) thừa nhận lối đi trước đây vào nhà cũ của ông, xe ô tô không vào được, năm 1985 khi ông xây nhà phải sử dụng xe cải tiến chở gạch. Ngoài ra, các ông, bà: Nguyễn Thị Kim (BL 143), Phạm Thị Thu (BL 136,144), Lê Ngọc Cường (BL 146), Đào Văn Chính (BL 133), Đỗ Văn Hoan (BL 134), Nguyễn Thị Tứ (BL 135), Phạm Thị Nguyệt (BL 137), Dương Thị Duyên (BL 140), đều khẳng định ngõ đi vào nhà ông Thụ chỉ rộng 01m.

Tại Biên bản làm việc ngày 11/8/2005 về việc xác minh ranh giới sử dụng đất (phần ngố đi của hai hộ gia đình bà Dung và ông Thụ), ủy ban nhân dân xã Việt Hưng cũng khẳng định ngõ đi trước đây vào nhà ông Thụ rộng khoảng 01 m, phần đất còn lại trước đây là của gia đình bà Dung quản lý; đề nghị bà Dung để lại 0,8m chiều rộng để lối đi rộng hơn; giao cho địa chính cùng lãnh đạo phân khu mời đồng chí Phó Chủ tịch hội đồng nhân dân đến hiện trường cắm mốc giới cho gia đình bà Dung.

Tại Thông báo số 40/TB-UB ngày 17/8/2005 (BL 265), Công văn số 68/ƯB ngày 19/9/2005 (BL 96) của ủy ban nhân dân phường Việt Hưng (trước đây là xã Việt Hưng) đều kết luận lối đi trước đây chỉ rộng khoảng lm, phần đất còn lại thuộc quyền quản lý, sử dụng của bà Dung. Sau khi xét xử phúc thấm, úy ban nhân dân phường Việt Hưng tiếp tục có Công văn số 01/UBND ngày 05/01/2012 (do bà Dung xuất trình kèm theo đơn khiếu nại) khẳng định phần đất tranh chấp thuộc quyền quản lý, sử dụng của bà Dung và từ năm 2001 bà Dung đã nộp thuế đối với diện tích 124m2 đất (trong đó có phần đất tranh chấp).

Như vậy, với các tài liệu chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ xác định trình bày của ông Thụ về lối đi hiện nay gia đình ông sử dụng có hiện trạng từ trước là không đúng. Trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm (lần 2), Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng (trước đây là xã Việt Hưng) lại có các Thông báo: số 31/TB-UB ngày 23/9/2011 (BL 249); số 39/TB-UB ngay 30/11/2011 (BL274), theo đó xác định phần diện tích đất có tranh chấp (16m2) giữa các đưong sự thuộc thửa đất số 50, tờ bản đồ địa chính số 82 đo đạc năm 2003 có diện tích là 66m2 đất giao thông, chủ sử dụng là Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng.

Tại Biên bản xác minh của Tòa án cấp phúc thẩm ngày 12/12/2011 (BL 276), Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng tiếp tục xác định nội dung nêu trên, đồng thời cũng cho rằng vào năm 2004 đã có kết quả đo vẽ lại đất của bà Dung từ 108,3m2 thành 124,3m2 nhưng giữa các bên không thống nhất kết quả đo vẽ này, ngoài ra, Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng còn xác nhận: từ năm 2001, bà Dung đã đóng thuế nhà đất đối với 124,3m2; bà Dung kiện ông Thụ là không đúng vì thửa đất số 50 - tờ bản đồ địa chính số 82 chủ quản lý, sử dụng là Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng.

Với các tài liệu đã dẫn ở trên thì thấy Thông báo số 31/TB-ƯB ngày 23/9/2011, Thông báo số 39/TB-UB ngày 30/11/2011 và Biên bản xác minh ngày 12/12/2011 của Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng có nội dung mâu thuẫn với Biên bản làm việc xác minh ranh giới sử dụng đất ngày 11/8/2005, Thông báo số 40/TB-UB ngày 17/8/2005, Công văn sổ 68/UB ngày 19/9/2005 và sau này là Công văn số 01/UBND ngày 05/01/2012, Công văn số 51/ƯBND ngày 20/4/2012 của chính ủy ban nhân dân phường Việt Hưng, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào Thông báo số 31, Thông báo số 39 và Biên bản xác minh nêu trên để xác định diện tích đất có tranh chấp là đất giao thông do ủy ban nhân dân phường Việt Hưng là chủ sử dụng trong khi chưa xác minh làm rõ những nội dung còn mâu thuẫn trong các văn bản của chính quyền địa phương; không thu thập, xác minh chứng cứ về thửa đất số 50, tờ bản đồ địa chính số 82 tại Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hạ Long và quan điểm của Ưỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long về diện tích đất hiện bà Dung có tranh chấp với ông Thụ, từ đó bác yêu cầu của bà Dung là không đúng.

Mặt khác, sau khi xét xử phúc thẩm lần 2 (ngày 30/12/2011), Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng lại có 02 công văn: số 01/UBND ngày 05/01/2012; số 51/UBND ngày 20/4/2012, xác định việc đo vẽ thửa 50 tờ bản đồ số 82 là chưa đúng và đề nghị Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hạ Long đo vẽ và điều chỉnh hồ sơ địa chính theo hướng: Thửa 50 nêu trên, chủ sử dụng là Uỷ ban nhân dân phường việt Hưng còn 50m2; thửa 51 tờ bản đồ số 82 của bà Dung là 124m2 (thay vì theo Bản đồ địa chính năm 2003 là 108,3m2), đồng thời theo Biên bản xác minh ngày 10/12/2013 của Tòa án cấp phúc thẩm (sau khi đã xét xử phúc thẩm) đối với Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng thì việc thu thập, xác minh chứng cứ theo những nội dung đã nêu ở trên lại càng cần thiết, là căn cứ để giải quyết vụ án được chính xác và triệt đế.

Về tố tụng, theo đon khởi kiện của bà Dung và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì diện tích đất bà Dung tranh chấp chỉ liên quan đến thửa đất số 50, tờ bản đồ địa chính số 82 do Uỷ ban nhân dân phường Việt Hung là chủ quản lý, sử dụng, không liên quan đến thửa đất số 84, tờ bản đồ địa chính số 82 do ông Thụ đứng tên. Vì vậy, để xác định đúng diện tích đất giao thông của Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng là bao nhiêu m2? bà Dung được sử dụng bao nhiêu m2 thì cần thiết phải đưa Uỷ ban nhân dân phường Việt Hưng vào tham gia tố tụng ngay từ thủ tục sơ thẩm, từ đó xác định lại tư cách của các đương sự trong vụ án nhằm giải quyết triệt để vụ án, tránh tranh chấp kéo dài, đồng thời bảo đảm

Việc kê khai, sử dụng đất của bà Dung và việc quản lý đất của địa phương được chính xác.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 511/2013/KN-DS ngày 31/10/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2011/DSPT ngày 30/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày 13/4/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim Dung với bị đơn là ông Phan Xuân Thụ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Kim.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 191/2014/DS-GĐT NGÀY 13/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án