QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 192/2014/DS-GĐT NGÀY 13/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 13/5/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

Anh Nguyễn Đức Thành, sinh năm 1957;

Trú tại: tổ 48A, phường Hà Phong, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Tạm trú: tổ 9, khu 3, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Bị đơn:

1. Chị Nguyễn Thị Tuyên, sinh năm 1957;

2.Chị Nguyễn Thị Lương, sinh năm 1965;

3. Anh Nguyễn Văn Thức, sinh năm 1973;

Cùng trú tại: tổ 11, khu 5, phường Hà Tu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.  Anh Vũ Minh Sáo, sinh năm 1953 (chồng chị Tuyên);

2.  Anh Lê Văn Xuân, sinh năm 1965 (chồng chị Lương);

Cùng trú tại: tổ 11, khu 5, phường Hà Tu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Theo Quyết định kháng nghị số 98/2013/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 12/9/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2012/DS-PT ngày 20/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện ngày 04/12/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - anh Nguyễn Đức Thành trình bày: năm 1984, anh được ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai (nay là thành phố Hạ Long) cấp cho 240m2 đất để xây dựng nhà ở theo Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 06/4/1984. Sau khi được giao đất, anh đã xây dựng nhà ở nhưng sau bị đổ. Đồng thời, do anh Nguyễn Văn Khảng (anh trai chị Tuyên và chị Lương) lấn chiếm, cản trở không cho anh sử dụng đất đã được cấp nên anh đã đề nghị ủy ban nhân dân thị trấn Hà Tu (nay là phường Hà Tu) giải quyết nhiều lần nhưng không thành.

Nay anh khởi kiện yêu cầu chị Nguyễn Thị Tuyên, chị Nguyễn Thị Lương và anh Nguyễn Văn Thức phải trả lại cho anh 240m2 đất đúng như trong Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 do ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai đã cấp cho anh ngày 06/4/1984. Anh không chấp nhận bồi thường công trình xây dựng trên đất của các bị đơn với lý do các bị đơn lấn chiếm đất, xây dựng nhà trái phép và không đưa ra được chứng cứ về việc có công san gạt đất.

Bị đơn - chị Nguyễn Thị Tuyên và chị Nguyễn Thị Lương trình bày: Diện tích đất hiện hai chị đang sử dụng là do anh trai của hai chị là anh Nguyễn Văn Khảng khai hoang từ năm 1977 mà có (anh Khảng đã chết năm 2004). Năm 1984 và năm 1993 anh Khảng cho chị Lương và chị Tuyên mỗi người một diện tích đất là 300m2. Vì là đất khai hoang nên không có giấy tờ và việc anh Khảng cho đất hai chị cũng không có giấy tờ gì. Việc tranh chấp với anh Thành đã xảy ra từ năm 1995 nhưng chưa được cơ quan nào giải quyết dứt điểm. Gia đình các chị không thể chờ đợi được nên từ năm 2005 gia đình các chị đã xây nhà kiên cố để ở. Nếu phải trả đất cho anh Thành, chị Tuyên yêu cầu anh Thành bồi thường 1.200.000.000 đồng, chị Lương yêu cầu anh Thành bồi thường 1.500.000.000 đồng, bao gồm tiền công san gạt đất và các công trình đã xây dựng trên đất.

Bị đơn - anh Nguyễn Văn Thức trình bày: phần diện tích đất 21,9m2 thuộc thửa đất số 54 anh đã đổi cho chị Tuyên từ năm 2000, vì vậy anh không có ý kiến gì về việc này.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh Vũ Minh Sáo có lời khai thống nhất với lời khai của bị đơn - chị Nguyễn Thị Tuyên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh Lê Văn Xuân có lời khai thống nhất với lời khai của bị đơn - chị Nguyễn Thị Lương.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2008/ST ngày 16/01/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi quyền sử dụng đất của nguyên đơn anh Nguyễn Đức Thành. Buộc chị Tuyên và anh Sáo phải tháo dỡ phần tài sản trên diện tích 103,8m2 đất, trả lại anh Thành 103,8m2 đất. Buộc chị Lương và anh Xuân phải tháo dỡ phần tài sản trên diện tích 136,2m2 đất, trả lại cho anh Thành 136,2m2 đất. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, chị Tuyên và chị Lương có đơn kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2008/DS-PT ngày 16/5/2008, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định:

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm nêu trên, ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, vợ chồng chị Lương, chị Tuyên có đơn khiếu nại. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh có Công văn số 01/BC-VKS-P5 ngày 12/01/2009 gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên.

Ngày 23/3/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Quyết định kháng nghị số 23/QĐ-KNGĐT-V5 đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2008/DS-PT nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh theo thủ tục giám đốc thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2008/ST ngày 16/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh và Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2008/DS-PT ngày 16/5/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định số 275/2009/DS-GĐT ngày 13/7/2009, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2008/ST ngày 16/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh và Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2008/DS-PT ngày 16/5/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2011/DSST ngày 11/5/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chị Nguyễn Thị Tuyên, anh Vũ Minh Sáo được quyền sử dụng 103,8m2 đất và chị Nguyễn Thị Lương, anh Lê Minh Xuân được quyền sử dụng 136,2m2 đất tại tổ 11, khu 5, phường Hà Tu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh theo Giấy phép xây dựng số 257 do ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai đã cấp cho anh Nguyễn Đức Thành ngày 06/4/1984. Chị Tuyên, anh Sáo có nghĩa vụ thanh toán cho anh Thành 207.600.000 đồng; chị Lương, anh Xuân có nghĩa vụ thanh toán cho anh Thành 272.400.000 đồng (giá trị quyền sử dụng 103,8m2 đất và giá trị quyền sử dụng 136,2m2 đất - theo giá 2.000.000 đồng/m2).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ do chậm thi hành án, về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 23/5/2011 nguyên đơn anh Nguyễn Đức Thành kháng cáo không đồng ý việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc chị Tuyên, chị Lương trả anh giá trị quyền sử dụng đất bằng tiền và không đồng ý giá đất 2.000.000 đồng/m2 mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng. Đồ nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh buộc chị Tuyên và chị Lương phải tháo dỡ tài sản trên đất trả lại 240m2 đất đã được ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai cấp cho anh theo Giấy phép xây dựng số 257 ngày 06/4/1984.

Ngày 23/5/2011, bị đơn chị Nguyễn Thị Tuyên, chị Nguyễn Thị Lương kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm với lý do: việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án mà thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân, và không đồng ý với việc Tòa án tuyên buộc các bị đơn phải trả nguyên đơn giá trị quyền sử dụng đất theo giá 2.000.000 đồng/m2.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2012/DS-PT ngày 20/9/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định: Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2011/DSST ngày 11/5/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long.

Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Đức Thành. Buộc chị Nguyễn Thị Tuyên và anh Vũ Minh Sáo phải thanh toán trả anh Nguyễn Đức Thành giá trị quyền sử dụng 103,8m2 đất X 10.000.000 đồng/m2 = 1.038.000. 000 đồng.

Chị Nguyễn Thị Tuyên và anh Vũ Minh Sáo được quyền sử dụng 103,8mđất nằm trong Giấy phép xây dựng số 257 ngày 06/4/1984 do ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai đã cấp cho anh Nguyễn Đức Thành tại tổ 11, khu 5, phường Hà Tu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh (theo Sơ đồ hiện trạng lập ngày 28/8/2007 và Bản đồ khảo sát hiện trạng do Trung tâm Thông tin và tài nguyên môi trường lập tháng 4/2007).

Buộc chị Nguyễn Thị Lương, anh Lê Văn Xuân phải thanh toán trả anh Nguyễn Đức Thành giá trị quyền sử dụng 136,2m2 đất X 10.000.000 đồng/m2 = 1.362.000. 000 đồng.

Chị Nguyễn Thị Lương và anh Lê Văn Xuân được quyền sử dụng 136,2mđất nằm trong Giấy phép xây dựng số 257 ngày 06/4/1984 do ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai đã cấp cho anh Nguyễn Đức Thành tại tổ 11, khu 5, phường Hà Tu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh (theo Sơ đồ hiện trạng lập ngày 28/8/2007 và Bản đồ khảo sát hiện trạng do Trung tâm Thông tin và tài nguyên môi trường lập tháng 4/2007).

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Tuyên, chị Lương khiếu nại Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ngày 08/11/2012, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh có Báo cáo số 07/BC-VKSQN-P5 đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thấm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ngày 22/5/2013, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh có Công văn số 169/ĐĐBQH-TTND2 gửi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị xem xét lại Bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 98/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 12/9/2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thấm số 28/2012/DS-PT ngày 20/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2011/DSST ngày 11/5/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đình chỉ vụ án, trả lại đơn khởi kiện cho đương sự với nhận định như sau:

“Diện tích đất tranh chấp hiện gia đình chị Nguyễn Thị Tuyên và anh Vũ Minh Sáo đang sử dụng 103,8m2và gia đình chị Nguyễn Thị Lương và anh Lê Văn Xuân đang sử dụng 136,2m2 thuộc một phần thửa 54; một phần thửa số 55 và một phần thửa số 31, tờ bản đồ địa chính số 53 tọa lạc tại phường Hà Tu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh (BL368) trước đây do anh Nguyễn Văn Khảng (anh trai chị Tuyên, chị Lương) khai phá. Năm 1984 anh Khảng cho chị Lương 136,2m2 và năm 1993 cho chị Tuyên 103,8m2 để hai chị xây dựng nhà ở (việc giao cho chỉ bằng miệng, anh Khảng chết năm 2004). Quá trình sử dụng gia đình chị Tuyên và chị Lương đã san gạt độ dốc để xây dựng nhà kiên cố.

Anh Thành cho rằng diện tích đất gia đình chị Tuyên và chị Lương đang sử dụng là của anh được ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai, tỉnh Quảng Ninh cấp cho anh từ năm 1984, do anh Khảng lấn chiếm để lại cho chị Tuyên, chị Lương, anh Thành còn cho rằng anh đã được giao đất và nhận đất làm nhà ở sau đó bị anh Khảng phá ngôi nhà của anh (BL 02, 39, 50), sau đó anh lại khai nhà bị đổ (BL 689) nhưng không có căn cứ chứng minh. Xét thấy, “Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở” số 257 ngày 06/4/1984 của ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai (nay là ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long) cho phép anh Thành được làm nhà cấp 4 trên diện tích 240m2 tại Dốc Khế, Hà Tu. Giấy phép này quy định trong quá trình xây dựng phải: “Báo với khu phố, thị trấn trước khi khởi công; phải báo với Ban Công nghiệp đến cắm mốc mới được khai thác làm nhà... Giấy phép này sau 6 tháng kể từ ngày ký mà không sử dụng đất và xây dựng nhà ở thì không còn giá trị...” (BL 652).

Trong hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện khu phố, ủy ban nhân dân phường và Ban công nghiệp thị xã Hòn Gai (nay là thành phố Hạ Long) xác nhận về việc anh Thành trước khi khởi công có báo với khu phố, ủy ban nhân dân phường và Ban công nghiệp, đồng thời cũng không có chứng cứ nào thể hiện việc cắm mốc và bàn giao đất của cơ quan chuyên môn được ghi trong “Giấy phép sử dụng đất công và xây dụng nhà ở” số 257 ngày 06/4/1984 cho anh Thành. Từ khi anh Thành được cấp Giấy phép xây dựng số 257 ngày 06/4/1984 đến nay anh Thành không kê khai đăng ký, nộp thuế (BL 667). Anh Thành khởi kiện nhưng không chứng minh được quyền sử dụng đất của mình trong khi các bị đơn đã sử dụng diện tích tranh chấp từ năm 1977 (do anh Khảng sử dụng). Theo quy định tại điểm d, Điều 21, Nghị định số 47/CPngày 15/3/1972 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về lựa chọn địa điểm công trình và quản lý đất đai xây dựng có hiệu lực từ 15/3/1972, hết hiệu lực 15/10/1993 quy đình: “Sáu tháng sau khi được cấp giấy phép dùng đất mà chưa làm dùng để xây dựng thì người được cấp không có quyền được sử dụng nữa. Trong trường họp có lý do để xin gia hạn thêm. Cộng chung thời gian cấp đất và các kỳ xin gia hạn không được quá một năm. Sau một năm muốn dùng đất đó để xây dựng thì phải xin phép lại”.

Tại “Sổ theo dõi sử dụng ruộng đất” của ủy ban nhân dân phường Hà Tu (không thể hiện năm) tại trang 93 ông Nguyễn Văn Khảng đứng tên thửa 800 tại T11-K5 với diện tích 247m2. Việc xác định diện tích đất được cấp tại Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 06/4/1984 có nằm trong thửa đất số 800 không? Việc này, ủy ban nhân dân phường Hà Tu không có cơ sở xác định vì hiện nay không có mốc giới thửa đất số 800 và mốc giới diện tích đất được cấp theo giấy phép số 257 tại thực địa” (BL 675). Lời khai ngày 17/11/2009, chị Nguyễn Thị Hòa (vợ anh Khảng) xác định diện tích 247m2 tại thửa 800 là của gia đình chị, hiện nay chị đang sử dụng, còn phần đất chị Tuyên, chị Lương đang sử dụng do chị và anh Khảng khai phá, không nằm trong thửa 800 (BL 439).

Như vậy, diện tích đất tranh chấp có nằm trong thửa 800 hay không, ủy ban nhân dân phường Hà Tu không xác định được. Đồng thời, không có căn cứ xác định anh Thành đã làm nhà trên diện tích đất tranh chấp, “Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở” số 257 ngày 06/4/1984 chỉ có hiệu lực trong sáu tháng sau khi được cấp giấy phép. Sau đó, anh Thành không xin gia hạn thêm và cũng không xin phép cấp lại nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại thụ lý giải quyết là không đúng thẩm quyền”.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 13/5/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên những nội dung nêu trong kháng nghị và đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị nêu trên của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình giải quyết vụ án của Tòa án các cấp, Hội đồng giám đốc thẩm nhận thấy như sau:

1. Về nguồn gốc đất tranh chấp: Theo đơn khởi kiện và trình bày của mình, nguyên đơn - anh Nguyễn Đức Thành cho rằng diện tích 240m2 đất hiện các bên đang tranh chấp có nguồn gốc là quyền sử dụng của anh bởi vì vào năm 1984, ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai (nay là ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long) cấp cho anh theo Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 06/4/1984 (BL552 - sau đây viết tắt là Giấy phép số 257). Sau khi được cấp Giấy phép, anh được đại diện Ban Công nghiệp thị xã Hòn Gai (bà Liền) và đại diện ủy ban nhân dân phường Hà Tu, thị xã Hòn Gai (ông Nguyễn Tiến Hòe) cùng tiến hành cắm mốc, bàn giao đất tại thực địa theo sơ đồ kèm theo Giấy phép số 257. Sau đó, vào ngày 10/4/1984, anh xây dựng nhà trên đất được giao, đến ngày 25/4/1984 thì nhà bị đổ, đồng thời anh Nguyễn Văn Khảng (anh trai của chị Tuyên, chị Lương) có đất liền kề ra lấn chiếm, cản trở việc sử dụng diện tích đất nêu trên của anh nên giữa hai bên đã xảy ra tranh chấp. Anh đã đề nghị ủy ban nhân dân phường Hà Tu giải quyết nhiều lần nhưng sự việc không được giải quyết dứt điểm. Vì vậy anh đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc chị Tuyên, chị Lương, anh Thức, là những người đã lấn chiếm đất phải trả lại diện tích đất anh đã được cấp theo Giấy phép sổ 257. Còn bị đơn là chị Nguyễn Thị Tuyên, chị Nguyễn Thị Lương thì cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp giữa các bên là do anh Nguyễn Văn Khảng (anh trai của hai chị) khai phá từ năm 1977. Đen năm 1984, anh Khảng cho chị Lương 300m2 đất; năm 1993 anh Khảng cho chị Tuyên 300mđất để làm nhà ở. Từ khi sử dụng đất cho đến nay, đất của hai chị liền kề với đất của ông Hạo và anh Khảng, không có đất của anh Thành.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều cho rằng diện tích đất tranh chấp nêu trên có nguồn gốc là của anh Thành. Theo sơ đồ kèm theo Giấy phép số 257 mà ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai cấp cho anh Thành (BL552) thì đất của anh Thành được cấp có tứ cận: phía Đông giáp đất ông Hạo và thung lũng; phía Tây giáp đất anh Khảng; phía Nam giáp đường 18A; phía Bắc giáp sườn đồi. Vị trí đất của anh Thành đối diện với doanh trại của Công an vũ trang (nay là doanh trại Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh), ở giữa có con đường đi ra chợ Hà Tu. Tuy nhiên, theo Đơn xin quyền sử dụng đất ngày 08/8/1984 gửi Trung đoàn 131 Hải quân (BL288) của anh Lê Văn Xuân - người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và là chồng chị Lương có nội dung: anh Xuân xin sử dụng mảnh đất do đơn vị đang quản lý cho anh Khảng và chị Lương khai phá trồng khoai sắn từ năm 1977 để làm nhà ở với tứ cận; phía Đông giáp đất ông Hạo; phía Tây giáp đất anh Khảng; phía Nam giáp đường 18A; phía Bắc giáp cột điện thông tin và đường dây thông tin. Đơn này được Ban chỉ huy Trung đoàn xác nhận: đất quốc phòng giao cho gia đình quân nhân quản lý từ năm 1984, có chữ ký của ông Trần Xuân Hạo là người có đất liền kề. Như vậy, với hai tài liệu nêu trên thì nguồn gốc đất tranh chấp chưa được Tòa án các cấp làm rõ. Lẽ ra, khi giải quyết vụ án, Tòa án cần xác minh tại ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long để xác định năm 1984 khi Uỷ ban nhân dân thị xã Hòn Gai giao đất cho anh Thành theo Giấy phép số 257 là đất nào? do ủy ban nhân dân quản lý hay là đất quốc phòng như xác nhận của Ban chỉ huy Trung đoàn 131? Vị trí đất tranh chấp theo Giấy phép số 257 có nằm trong phần diện tích đất mà anh Xuân, anh Khảng, chị Lương đã khai phá từ năm 1977 theo như đơn ngày 08/8/1984 của anh Xuân hay không? đồng thời cũng cần xác minh tại ủy ban nhân dân phường Hà Tu đế thu thập thêm chứng cứ nhằm làm rõ có việc anh Khảng khai phá thêm và sử dụng diện tích đất đã khai phá (ngoài diện tích đất đã đứng tên anh Khảng) như chị Hòa (vợ anh Khảng), chị Tuyên, chị Lương đã trình bày hay không? nếu có là từ năm nào? diện tích đất khai phá thêm là bao nhiêu m2? nằm ở vị trí nào? đất của anh Khảng cho chị Tuyên, chị Lương được thể hiện trên hồ sơ địa chính gốc nào?...

2. Về Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 06/4/1984:

Theo Giấy phép số 257 nêu trên của ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai thì anh Thành được làm nhà ở, nhà cấp 4 tại Dốc Khế Hà Tu, diện tích 240m2 (20m X 12m). Trong quá trình sử dụng xây dựng phải theo đúng những điều quy định sau đây: Phải báo với khu phố, thị trấn biết trước khi khởi công. Phải báo Ban Công nghiệp đến cắm mốc mới được khai thá đất, làm nhà..., Giấy phép này chỉ có giá trị đối với chủ hộ được cấp và sử dụng đúng mục đích cho phép. Giấy phép này sau 6 tháng, kể từ ngày ký mà không sử dụng đất và xây dựng nhà ở thì không còn giá trị. Người được cấp giấp phép này phải thi hành đúng những điều quy định trên, nếu sai hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Căn cứ nội dung của Giấy phép số 257 như đã nêu ở trên, tại các Công văn số 166/2010/CV-TA ngày 31/5/2010 (BL463); số 353/2009/CV-TA ngày 08/10/2009 (BL444) gửi ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long đã đề nghị ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long xác định giá trị pháp lý của Giấy phép số 257. Tại Công văn số 4652/CV-TNMT ngày 23/11/2009 (BL442), Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hạ Long xác nhận: cho đến thời điểm hiện nay, Giấy phép số 257 là một trong những giấy tờ thuộc khoản 1, 2 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, là giấy tờ hợp lệ để làm căn cứ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và sử dụng đất ở. Tuy nhiên, sau khi nhận được Công văn số 86/CV-VKS-P5 ngày 30/7/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (BL676) gửi ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, tại Công văn số 366/CV-VPĐKQSD đất ngày 07/9/2012 (BL677), Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hạ Long lại xác nhận: Giấy phép số 257 của ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai cấp cho anh Thành, do anh Thành không sử dụng nên không còn giá trị pháp lý (sau 6 tháng, kể từ ngày được cấp). Vì Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hạ Long có ý kiến khác nhau về Giấy phép số 257 nên ngày 21/9/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã lập Biên bản xác minh tại ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long (BL679+681), theo đó ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long xác nhận việc Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hạ Long có hai văn bản nêu trên là có sự phân công, chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long. Tại Biên bản xác minh này, Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long cho rằng: nếu trong thời hạn được cấp Giấy phép số 257 mà anh Thành nhận bàn giao đất và đầu tư xây dựng công trình trên đất thì Giấy phép trên còn giá trị sử dụng và được dùng làm căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Điều 50 Luật Đất đai. Còn nếu anh Thành không nhận bàn giao đất và không đầu tư xây dựng trên đất trong thời hạn được cấp của Giấy phép số 257 thì Giấy phép trên không còn giá trị sử dụng. Việc anh Thành có sử dụng Giấy phép trên hay không phụ thuộc vào việc thu thập và đánh giá chứng cứ của Tòa án. Như vậy, căn cứ theo kết quả xác minh của Tòa án cấp phúc thẩm thì Giấy phép số 257 mà ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai cấp cho anh Thành chưa bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi. Đồng thời, căn cứ vào nội dung của Giấy phép số 257 và Biên bản xác minh ngày 11/9/2012 nêu trên thì cần phải làm rõ: sau khi nhận Giấy phép số 257 anh Thành có được nhận bàn giao đất hay không? có việc anh Thành làm nhà trên đất được cấp hay không?

Theo hồ sơ vụ án thì thấy, khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm (lần 2) chỉ căn cứ vào kết quả thẩm định tại chỗ để xác định gia đình chị Tuyên đang sử dụng 103,8m2 đất, gia đình chị Lương đang sử dụng 136,2m2 đất nằm trong giấy phép của anh Thành, đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Công văn số 4652/CV-TNMT ngày 24/11/2009 của Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hạ Long để xác định giá trị pháp lý của Giấy phép số 257; Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá việc anh Thành có thực hiện hay chưa thực hiện theo những nội dung của Giấy phép số 257. Tòa án cấp phúc thẩm (lần 2) căn cứ lời khai, xác nhận của một số người làm chứng là anh Nguyễn Văn Tuấn, ông Nguyễn Tiến Hòe, ông Lương Xuân Thảo, bà Lê Hiền, ông Trần Sen và ông Tô Tiến Tọa để xác định sau khi được cấp Giấy phép số 257, anh Thành đã được giao nhận đất và san gạt đất xây dựng một nhà tranh tre, đồng thời cho rằng Biên bản họp tổ dân số 79 khu 5 ngày 01/5/1995 (BL119+120) không phải là căn cứ để xác định anh Thành không làm nhà trên đất được cấp vào năm 1984 với lý do không có sự tham gia của anh Thành, của Ban Thanh tra nhân dân theo đúng yêu cầu của ủy ban nhân dân phường Hà Tu tại Biên bản cuộc họp giải quyết tranh chấp đất đai giữa hai gia đình ngày 26/4/1995 (BL 380). Trong khi đó, theo giấy xác nhận của 09 người làm chứng vào tháng 5 năm 2008 (BL297+312) thì các ông, bà: Đoàn Lệ Mỹ, Trần Mạnh Thưởng, Nguyễn Đình Dừa, Nguyễn Thị Thấu, Dương Văn Sáng, Nguyễn Văn Búp, Phạm Văn cần, Nguyễn Hữu Hiền, Chu cẩm Sơn lại xác nhận với nội dung: Vào năm 1984 anh Thành không làm nhà trên đất. Đất do chị Lương, anh Xuân quản lý, sử dụng từ năm đó (năm 1984). Ngoài ra, trong nhiều văn bản, ủy ban nhân dân phường Hà Tu xác định anh Thành không kê khai quyền sử dụng đất, không có tên trong sổ theo dõi địa chính của phường và cho rằng Giấy phép số 257 mà ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai cấp cho anh Thành không còn giá trị. Như vậy lời khai của những người làm chứng là không thống nhất với nhau về nội dung anh Thành có nhận bàn giao đất và làm nhà trên đất được cấp hay không. Do đó, cần thiết phải tiến hành đối chất giữa những người làm chứng theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng dân sự.

Mặt khác, liên quan đến việc đo đất, cắm mốc, giao đất và làm nhà của anh Thành theo Giấy phép số 257, Hội đồng giám đốc thẩm thấy rằng tại Giấy xác nhận ngày 28/4/2007 (BL 145); Tự khai ngày 30/5/2007 (BL 136); xác nhận tại Đơn ngày 07/4/2008 của anh Thành (BL 313); lời trình bày tại cuộc họp ngày 26/4/1995 của ủy ban nhân dân phường Hà Tu (BL 380), tại phiên tòa sơ thẩm ngày 16/01/2008 (BL 233), ông Nguyễn Tiến Hòe - cán bộ ủy ban nhân dân phường Hà Tu thời kỳ 1979-1989 khẳng định: Vào thời điểm đó, ông được ông Hoàng Do - Chủ tịch ủy ban nhân dân phường Hà Tu cử ông cùng bà Liền - cán bộ quản lý nhà đất thị xã đi đo và cắm đất cho anh Thành tại Dốc Khế Hà Tu, khi đo là bằng phương pháp thủ công, khi giao đất chỉ có nhà anh Khảng. Anh Thành san thủ công, làm nhà tranh quay về hướng Đông. Khi nhà bị phá, anh Thành có đơn gửi ủy ban nhân dân phường Hà Tu đề nghị giải quyết. Anh Thành có gặp trực tiếp các ông: Hoàng Do - Chủ tịch, ông Nguyễn Hữu Thích - Phó chủ tịch, ông Nguyễn Đình Duyến - ủy viên thư ký ủy ban nhân dân phường Hà Tu... sau này khi xảy ra tranh chấp và năm 1995, ủy ban nhân dân phường Hà Tu có mời ông, lúc đó có ông Hùng - Chủ tịch, ông Dũng - Phó chủ tịch giải quyết nhưng không đạt kết quả. Tại Đơn ngày 07/4/2008 của anh Thành (BL 313), ông Nguyễn Hữu Thích - Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân phường Hà Tu thời kỳ năm 1979-1989 xác nhận nội dung trình bày nêu trên của ông Hòe là đúng. Ông xác định:

Việc cấp đất cho anh Thành, tổ dân phố cùng bà Liền - cán bộ phòng nhà đất thị xã đã kiểm tra, xem xét hiện trường cụ thể. Việc tranh chấp không được giải quyết nên hàng năm anh Thành vẫn có đon đề nghị ủy ban nhân dân phường giải quyết. Cũng tại Đơn nêu trên của anh Thành, ông Nguyễn Văn Hùng - Chủ tịch ủy ban nhân dân phường Hà Tu thời kỳ 1991-1998 xác nhận: Việc tranh chấp đất đai của anh Thành là có thật, có hồ sơ lưu trữ tại phường Hà Tu.

Với nội dung các tài liệu đã dẫn ở trên, để làm rõ vào năm 1984 đại diện ban Công nghiệp thị xã Hòn Gai và đại diện ủy ban nhân dân phường Hà Tu có tiến hành đi đo, cắm mốc, giao đất trên thực địa cho anh Thành hay không? anh Thành có làm nhà hay không? và sau khi nhà bị đổ, anh Khảng lấn chiếm đất (nếu có) thì anh Thành có làm đơn vào năm 1984 gửi ủy ban nhân dân phường Hà Tu đề nghị giải quyết hay không thì cần thiết phải thu thập và xác minh thêm các chứng cứ tại ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long về việc vào thời điểm tháng 4 năm 1984, Ban công nghiệp thị xã Hòn Gai có những ai? bà Liền công tác tại Ban công nghiệp thị xã Hòn Gai hay tại Phòng nhà đất thị xã Hòn Gai? có việc Ban công nghiệp thị xã Hòn Gai hay Phòng quản lý nhà đất thị xã Hòn Gai cử bà Liền phối hợp với ủy ban nhân dân phường Hà Tu đến đo, cắm mốc và giao đất trên thực địa cho anh Thành theo Giấy phép số 257 không? nếu có thì có lập Biên bản cắm mốc và bàn giao đất không? Biên bản này (nếu có) thì hiện còn được lưu giữ tại cơ quan nào? Đồng thời Tòa án cần triệu tập và lấy lời khai đối với bà Liền (người có tên trên Giấy phép số 257) để xác minh lời khai, xác nhận và trình bày của ông Hòe có đúng không? Mặt khác cũng cần lấy lời khai của ông Nguyễn Hữu Thích, ông Hoàng Do, ông Nguyễn Đình Duyến để xác minh nội dung mà ông Thích, ông Do đã xác nhận tại Đơn ngày 07/4/2008 của anh Thành; xác minh trình bày của ông Hòe; xác minh về việc anh Thành có đơn gửi ủy ban nhân dân phường Hà Tu từ năm 1984; và thu thập toàn bộ đơn của anh Thành đã gửi ủy ban nhân dân phường Hà Tu qua các thời kỳ bởi vì theo Biên bản giải quyết đơn thư của anh Thành ngày 16/10/2006 (BL 118), ủy ban nhân dân phường Hà Tu có xác nhận việc anh Thành đã cung cấp toàn bộ đơn thư gửi các cấp chính quyền từ năm 1984 đến nay. Ngoài ra, cũng cần lấy lời khai của bà Lê Hiền - nguyên Uỷ viên thường vụ Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Quảng Ninh; lời khai của ông Trần Vãn Sen - nguyên Tổ trưởng Tổ kiểm lâm thị xã Hòn Gai để xác minh lại nội dung xác nhận của ông, bà có tên trên tại Đơn ngày 14/11/2009 của anh Thành (BL 403).

Trong khi chưa thu thập và xác minh chứng cứ đối với những người có liên quan đến việc đo đạc, cắm mốc, bàn giao đất cho anh Thành; việc anh Thành có làm nhà trên đất, cũng như xác minh thêm về nguồn gốc đất tranh chấp và tiến hành đối chất giữa những người làm chứng với nhau thì việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định diện tích đất tranh chấp là của anh Thành và buộc vợ chồng chị Tuyên, vợ chồng chị Lương phải thanh toán bằng giá trị quyền sử dụng đất cho anh Thành là chưa đủ cơ sở vững chắc. Còn Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện việc cắm mốc và bàn giao đất của cơ quan chuyên môn được ghi trong Giấy phép số 257 cho anh Thành và việc anh Thành không làm nhà trên diện tích đất tranh chấp cũng chưa thuyết phục. Mặt khác, nếu theo xác nhận của ông Nguyễn Hữu Thích tại Đơn ngày 07/4/2008 của anh Thành và trình bày của anh Thành thì từ năm 1984 anh Thành đã có đơn đề nghị ủy ban nhân dân phường Hà Tu giải quyết việc tranh chấp đối với anh Khảng nhưng không được giải quyết dứt điểm. Do đó, việc anh Thành không thực hiện được quyền sử dụng đất, không xin gia hạn Giấy phép số 257 hay xin cấp lại Giấy phép là có lý do khách quan.

Tổng hợp những nội dung đã được phân tích ở trên, Hội đồng giám đốc thẩm nhận thấy Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cần thiết.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 98/2013/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 12/9/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2012/DS-PT ngày 20/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2011/DSST ngày 11/5/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là anh Nguyễn Đức Thành với bị đơn là chị Nguyễn Thị Tuyên, chị Nguyễn Thị Lương, anh Nguyễn Văn Thức và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh: Vũ Minh Sáo, Lê Văn Xuân.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 192/2014/DS-GĐT NGÀY 13/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án