QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 220/2014/DS-GĐT NGÀY 09/06/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 9/6/2014 tại trụ sở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2011/DS-PT ngày 28/07/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, có các đưorng sự:

Nguyên đơn: Dương Văn Tuồng, sinh năm 1966; trú tại ấp Phụng Sơn, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

Bị đơn: Trần Văn Tốt, sinh năm 1943 và vợ là Phạm Thị Tư, sinh năm 1950; trú tại ấp Phụng Sơn, xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện ngày 04/11/2010 và trong quá trình tố tụng, ông Dương Văn Tuồng trình bày:

Ngày 3/12/2003 ông Tốt bán cho ông phần đất cây lâu năm có kích thước ngang 10m, dài 40m bằng 400m2; vị trí đất bên trái giáp ranh với đất của ông Huỳnh Thanh Khương, bên phải giáp ranh đất của ông Tốt với giá 9.200.000đ.

Hai bên có làm giấy viết tay, có bà Phạm Thị Tư (vợ của ông Tốt) cùng chứng kiến và ký tên trong họp đồng. Sau đó, ông tiến hành các thủ tục chuyển nhượng đất theo quy định luật đất đai và họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông Tốt, bà Tư cùng các con ông bà ký. Đến ngày 14/02/2006 ông được ủy ban nhân dân huyện Phụng Hiệp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi chuyển nhượng thì diện tích đất ông Tốt bà Tư còn lấn sang vách nhà lá của ông có kích thước ngang 2,7m, dài 12m ông Tốt hứa khi chuyển nhượng xong thì ông sẽ dời nhà giao trả đất. Sau khi thực hiện xong hợp đồng được Ủy ban nhân dân huyện Phụng Hiệp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông yêu cầu ông Tốt di dời nhà để giao đất cho ông nhưng ông Tốt không di dời mà ngang nhiên xây dựng tường trên đất tranh chấp. Nay ông yêu cầu ông Tốt bà  Tư tháo dỡ tường đã xây trả lại đất cho ông.

Bị đơn ông Trần Văn Tốt trình bày: Ông thừa nhận có ký kết tất cả các thủ tục bán 400m2 đất trồng cây lâu năm cho ông Tuồng với giá 9.200.000đ như ông Tuồng trình bày là đúng. Nhưng khi chuyển nhượng bà Tư không biết. Nay ông yêu cầu hủy họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đồng ý chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Tuồng.

Bà Phạm Thị Tư có yêu cầu phản tố trình bày: trước đây ông Tốt (chồng bà) có bán đất cho ông Tuồng nhưng bà không biết. Khi bà phát hiện bà có ngăn cản và trả lại tiền bán đất cho vợ chồng ông Tuồng là 7.000.000đ. Cách đây khoảng hai năm bà phát hiện ông Tốt bán nhưng bà hỏi ra thì ông Tốt nói cố cho vợ chồng ông Tuồng 10.000.000d, bà nghĩ có thật nên cũng bỏ quả. Khi bà sửa nhà thì vợ chồng ông Tuồng ngăn cản bà mới biết ông Tốt đã bán đất.

Bà xác định không ký giấy tờ bán đất và yêu cầu hủy họp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Tốt và ông Tuồng và đồng ý trả lại cho ông Tuồng 10.000.000đ, bà nghĩ có thật nên cũng bỏ qua. Khi bà sửa nhà thì vợ chồng ông Tuồng ngăn cản bà mới biết ông Tốt đã bán đất.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 43/2011/DS-ST ngày 18/4/2011, Tòa án huyện Phụng Hiệp đã quyết định.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tuồng. Buộc ông Tốt bà Tư tháo dỡ di dời toàn bộ vật kiến trúc xây cất nhà để lại 27,50m2 đất cho ông Tuồng.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Tư về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Tuồng.

Ngày 29/4/2011 bà Tư kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 106/2011/DS-PT ngàỵ 28/7/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp kiến nghị cho rằng: nếu phải cưỡng chế tháo dỡ di dời toàn bộ vật kiến trúc xây cất nhà để trả đất cho nguyên đơn thì ảnh hưởng đến 2/3 căn nhà còn lại của bị đơn.

Tại Kháng nghị số 130/2014/DS-KN ngày 26/4/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm và hủy Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Tại “Tờ sang nhượng đất bờ sáng” lập ngày 3/12/2003 có nội dung vợ chồng ông Tốt, bà Tư chuyển nhượng cho ông Tuồng một phần đất có kích thước ngang 10m; dài 40m, diện tích 400m2 với giá 9.200.000 đồng, có chữ ký bà Tư (vợ ông Tốt) và tại Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 22/12/2005, có chứng thực của ủy ban nhân dân xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp để hợp thức hóa diện tích đất chuyển nhượng theo tờ sang nhượng đất bờ sáng ngày 03/12/2003 nêu trên, đều có chữ ký của ông Tốt, bà Tư và các con ông Tốt, bà Tư là các anh chị Trần Trung Chánh, Trần Thái Bình, Trần Thái Hòa, Trần Thị Lan và Trần Trung Cang. Ngày 14/02/2006 ông Tuồng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 400m2, trên phần đất chuyển nhượng vẫn còn một phần căn nhà chính của vợ chồng ông Tốt diện tích 27,5m2.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Tư có đơn phản tố cho rằng bà không chuyển nhượng đất và không công nhận chữ ký của bà trong các văn bản chuyến nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, đồng thời yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Trong trường họp này, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định nghĩa vụ chứng minh của bà Tư về việc xác định chữ ký trong các văn bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải của bà Tư, nên phải yêu câu bà Tư làm thủ tục để Tòa án trưng cầu giám định chữ ký của bà Tư trong các văn bản chuyển nhượng đất nêu trên, trên cơ sở kết luận giám định chữ ký bà Tư của cơ quan chuyên môn mới có căn cứ giải quyết vụ án.

Về tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa các con ông Tốt, bà Tư tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì những người này là một bên tham gia ký kết họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, là xác định không đầy đủ người tham gia tố tụng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự.

Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của bà Tư, trong khi bà Tư không công nhận chữ ký (ông Tốt thì cho rằng ông giấu vợ con bán đất cho ông Tuồng), và ông Tuồng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để công nhận họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và buộc vợ chồng ông Tốt, bà Tư tháo dỡ di dời toàn bộ vật kiến trúc xây cất nhà để trả lại 27,5Om2 đất cho ông Tuồng là không đúng.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị số 130/2014/DS-KN ngày 26/4/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2011/DS-PT ngày 28/7/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2011/DSST ngày 18/04/2011 của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Dương Văn Tuồng với các bị đơn là ông Trần Văn Tốt.

 
Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 220/2014/DS-GĐT NGÀY 09/06/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án