QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 229/2014/DS-GĐT NGÀY 10/6/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 10 tháng 06 năm 2014 tại trụ sở Cơ quan thường trực Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam mở phiên tòa giám đốc thấm xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất ” giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Bà Nguyễn Thị Thuận, sinh năm 1963

2. Ông Nguyễn Đình Long, sinh năm 1959

Cùng địa chỉ: số 01 đường Thùy Vân, phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

BỊ đơn:

1. Ông Nguyễn Văn Thu, sinh năm 1964

2. Bà Võ Thị Tuyết, sinh năm 1964

Cùng địa chỉ: số 01 đường Thùy Vân, phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) - Chi nhánh tỉnh Bà Rịa — Vũng Tàu

Trụ sở: 67A Lê Hồng Phong, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Đại diện ủy quyền: Ông Trần Quốc Khang, sinh năm 1979

Chức vụ: Phó giám đốc chi nhánh Bà Rịa - Vũng Tàu

NHẬN THẤY:

Theo đơn khởi kiện và những lời trình bày, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thuận và ông Nguyễn Đình Long trình bày:

Năm 1983, vợ chồng ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyên Thị Thuận thuê một căn nhà diện tích 36m2 của Nhà nước tại 138 Thùy Vân (nay là số 01 Thùy Vân). Khi đó, xung quanh nhà là đất trống nên hai vợ chồng ông bà đã khai phá thêm đất xung quanh, tổng diện tích đất mà ông bà sử dụng là 499m2. Khoảng từ năm 1985, ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận xây dựng một căn nhà cạnh ngôi nhà thuê của Nhà nước. Năm 1987, ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận xây tiếp một phòng rộng khoảng 3Om2trên phần đất khai phá, giáp với đất hàng xóm. Việc xây dựng có làm đơn xin phép.

Ngày 05/12/1991, ủy ban nhân dân phường 2 thành phố Vũng Tàu cấp “Giấy chứng nhận đã đăng ký đất đai số 1112/P2/ĐKĐĐ” xác nhận đã kê khai đăng ký với Nhà nước quyền sử dụng diện tích 499m2. Năm 1993, gia đình ông bà được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất và bắt đầu đóng thuế nhà đất từ năm 1993.

Tháng 09/1993, ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có quyết định thu hồi giấy chứng nhận với lý do nhà xây trên đất chiếm dụng của Nhà nước. Sau khi ông Nguyễn Đình Long có đơn khiếu nại, úy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có Quyết định số 1223/QĐ-UB ngày 27/03/1999 giải quyết đơn khiếu nại, công nhận quyền sử dụng diện tích đất 499m2 tại 138B (nay là số 01B) Thùy Vân cho vợ chồng ông Long.

Ngày 27/01/2005, ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận với diện tích là 373m2, sau khi đã bị Nhà nước thu hồi 126m2 đất để làm đường.

Bà Nguyễn Thị Thuận có em trai là ông Nguyễn Văn Thu sống cùng mẹ là cụ Nguyễn Thị Đíu tại Nghệ An, ông Thu có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Tháng 10/1987, vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận, ông Nguyễn Đình Long cho ông gia đình ông Nguyễn Văn Thu chuyển vào ở trên đất của ông bà, tạo điều kiện cho mượn đất, mượn quán để làm ăn. Gia đình ông Nguyễn Văn Thu ở trên ngôi nhà mà vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận xây dựng từ năm 1985. Đen năm 1990, căn nhà này bị mối xông mục nát nên vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận chuyến gia đình ông Nguyễn Văn Thu qua ở căn nhà mà ông bà xây năm 1987. Vợ chồng ông Nguyễn Văn Thu ở nhờ đến năm 1999 thì vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận lấy lại nhà để xây nhà cấp 3.

Tháng 2/1988, vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận cho ông Nguyễn Văn Thu góp nửa chỉ vàng để dựng quán cùng buôn bán, phần lớn chi phí là do vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận bỏ ra. Vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận bán hàng vào sáng sớm, buổi trưa, buổi tối còn vợ chồng ông Nguyễn Văn Thu bán hàng cả ngày, lời lãi chia đôi. Khoảng tháng 3/1990, ông Nguyễn Văn Thu đề nghị mượn quán bán hàng một mình nhưng bà Nguyễn Thị Thuận không đồng ý và trả cho ông Thu nửa chỉ vàng đã góp trước đây, không cho ông Thu bán quán nữa. Tháng 06/1990, bà Nguyễn Thị Thuận cho ông Nguyễn Nồng thuê lại quán nhưng sau đó, do thấy ông Nguyễn Văn Thu hoàn cảnh khó khăn nên bà đã lấy lại quán để cho ông Thu thuê nhưng bà cũng chỉ lây tiền tháng đầu sau đó thì không lấy tiền thuê nữa.

Vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận đã đồng ý cho vợ chồng vợ chồng ông Nguyễn Văn Thu xây nhà trên đất này, phía bên dưới để kinh doanh, phía bên trên để gia đình ông Thu ở cho đến nay.

Đến 08/4/2006, hai gia đình xảy ra tranh chấp khi ông Nguyễn Văn Thu không cho bà Nguyễn Thị Thuận treo biển quảng cáo trên phần đất ông Thu ở nhờ.

Nay, ông Nguyễn Đình Long và bà Nguyễn Thị Thuận yêu cầu gia đình ông Nguyên Văn Thu trả lại quyên sử dụng diện tích đât 82m2, đôi với nhà cửa và vật kiến trúc ông bà xin được sở hữu và bồi hoàn lại giá trị và hỗ trợ cho gia đình ông Thu 30.000.000đồng để di dời.

Hiện nay, gia đình bà Nguyễn Thị Thuận đang thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 338346 cấp ngày 27/01/2005 của nhà số 01B Thùy Vân để vay vốn của Sacombank.

Bị đơn, ông Nguyễn Văn Thu và bà Võ Thị Tuyết trình bày:

Năm 1987, vợ chồng ông Nguyễn Văn Thu và bà Võ Thị Tuyết bán hết tài sản ở quê gom được 13,5 chỉ vàng 24K chuyển vào sinh sống tại thành phố Vũng Tàu. Gia đình ông Nguyễn Văn Thu ở trên nhà của bà Nguyễn Thị Thuận tại 138 Thùy Vân. Ông Nguyễn Văn Thu và cụ Nguyễn Thị Đíu đã đưa toàn bộ số vàng này cho vợ chồng ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận. Do căn nhà mà gia đình bà Nguyễn Thị Thuận có diện tích đất trống xung quanh còn rộng nên đã cho ông Nguyễn Văn Thu xây nhà ngay bên cạnh hông nhà để chị em cùng ở, tiện việc chăm sóc mẹ già.

Năm 1988, ông Nguyễn Văn Thu xây nhà cấp 4 cạnh nhà 138 Thùy Vân của vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận. Năm 1999, dỡ nhà này và xây lại thành nhà cấp 3 một trệt một lầu bằng bê tông cốt thép, diện tích khoảng trên 5 Om2 trên vị trí nhà cấp 4 cũ, dựng thêm mái che phía trước và các công trình phụ khác để làm quán buôn bán, tổng diện tích sử dụng khoảng 84m2 và ở cho đến nay.

Do đã nhận vàng của gia đình ông Nguyễn Văn Thu đưa nên vợ chồng bà Nguyễn Thị Thuận đã hứa sẽ làm thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất cho gia đình ông Thu, việc này chỉ nói miệng, không làm giấy tờ.

Ông Nguyên Đình Long, bà Nguyên Thị Thuận tự ký kê khai làm thủ tục hợp thức hóa toàn bộ diện tích đất xung quanh nhà 138 Thùy Vân trong đó có cả diện tích 84m2 mà gia đình ông Nguyễn Văn Thu đang sử dụng mà không cho ông Thu biết. Khi ủy ban nhân dân phường 2 giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất năm 2006, ông Nguyễn Văn Thu mới biết về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Đình Long.

Ông Nguyễn Văn Thu không đồng ý trả lại quyền sử dụng đất như vợ chồng ông Nguyên Đình Long và bà Nguyễn Thị Thuận trình bày vì cho rằng việc kê khai quyền sử dụng đất của gia đình ông Long, bà Thuận không đúng hiện trạng thực tế.

Diện tích đât mà ông Nguyễn Văn Thu xây cất nhà có nguồn gốc là đất hoang hóa không phải đât thuộc quyên sử dụng của ông Long, bà Thuận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện Ngân hàng Sacombank trình bày: Ong Nguyễn Đình Long và bà Nguyễn Thị Thuận thế chấp nhà đất tại số 01 Thùy Vân phường 2 thành phố Vũng Tàu để vay nợ của Ngân hàng Sacombank - Chi nhánh Bà Rịa - Vũng Tàu số tiền 1.200.000.OOOđồng, hiện tại còn nợ 547.920.000đồng tiền gổc và 92.000.000đồng tiền lãi, ông Long, bà Thuận vẫn thực hiện đúng các điều khoản theo hợp đông tín dụng nên Ngân hàng chưa có yêu cầu đòi nợ.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DSST ngày 30/03/2012, Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vùng Tàu đã quyết định:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu được sử dụng đất của ông bà Nguyên Thị Thuận, ông Nguyễn Đình Long đối với ông Nguyễn Văn Thu, bà Võ Thị Tuyết trong việc tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi nhà đất cho ở nhờ.

Bác yêu cầu của ông Nguyễn Vãn Thu, bà Võ Thị Tuyết về việc đòi công nhận cho gia đình ông bà được quyền sử dụng 82m2 đất thuộc thửa số 26509.50 (30+91) tờ bản đồ số 50 phường 2 thành phố Vũng Tàu.

Buộc ông Nguyễn Vãn Thu, bà Võ Thị Tuyết giao trả phần đất 82m2 nói trên (ký hiệu lô B) cho ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận, trên đất có căn nhà cấp 3 và phần nhà cấp 4 phía trước, có tổng diện tích xây dựng là 84,36m (gồm ba phần: Nhà cấp 3 là 56,06m2 và nhà cấp 4 là 28,3m và phần đắt nằm ngoài lộ giới đường Thủy Vân), nằm trong diện tích đất 373m2 thửa sổ 26509.50 (30+91) tờ bản đồ số 50 phường 2 thành phố Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ủy ban nhân dân thành pho Vũng Tàu cap ngày 27/01/2005 đứng tên ông Nguyễn Đình Long và bà Nguyễn Thị Thuận.

Đất có vị trí tứ cận như sau:

01 cạnh dài 13,23m giáp thửa sổ 32

01 cạnh dài 6,45m giáp thửa sổ 30

01 cạnh dài 13,22m giáp thửa sổ 34

01 cạnh dài 5,95m giáp dường Thùy Vân

(Tất cả thể hiện trong Sơ đồ vị trí do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Vũng Tàu đo vẽ ngày 13/05/2011 kèm theo). Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Thuận bôi hoàn cho ông bà Nguyễn Vãn Thu, Võ Thị Tuyết là 240.467.000đồng là giả trị sử dụng còn lại của vật kiến trúc được xây dựng trên đất tranh chấp và so tiên hô trợ di dời là 30.000.000 đồng. Tổng cộng hai khoản là 270.467.000đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về quyên lưu cư, chi phí đo vẽ, án phí và quyền khảng cảo của các đương sự.

Ngày 13/04/2012, ông Nguyễn Văn Thu có đơn kháng cáo.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 37/2012/DS-PT ngày 10/07/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quyết định:

Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Nguyên Văn Thu, sủa một phần bản án sơ thẩm sổ 05/2012/DSST ngày 30/03/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu như sau:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu được sử dụng đất của ông bà Nguyễn Thị Thuận, ông Nguyễn Đình Long đối với ông Nguyễn Văn Thu, bà Võ Thị Tuyết trong việc tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi nhà đất cho ở nhờ.

Buộc ông Nguyễn Văn Thu, bà Võ Thị Tuyết giao trả phần đất 82m2 nói trên (ký hiệu lô B) cho ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận, trên đất có căn nhà cấp 3 và phần nhà cấp 4 phía trước, cỏ tổng diện tích xây dựng là 84,36m(gồm ba phần: Nhà cấp 3 là 56,06m2 và nhà cấp 4 là 28,3m2 và phần đất nằm ngoài lộ giới đường Thùy Vân), nằm trong diện tích đất 373m2 thửa sổ 26509.50 (30+91) tờ bản đồ sổ 50 phường 2 thành phổ Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân thành phổ Vũng Tàu cấp ngày 27/01/2005 đứng tên ông Nguyễn Đình Long và bà Nguyễn Thị Thuận và buộc ông Thu, bà Tuyết giao lại cho ông Long, bà Thuận toàn bộ nhà, vật kiến trúc trên đất, có tứ cận:

Đất có vị trí tứ cận như sau:

Phía Đông Nam giáp đường Thùy Vãn dài 5,95m

Phía Tây Bắc giáp phần còn lại của thửa sổ 26509.50 (30+91) của ông Long, bà Thuận dài 6,45m

Phía Đông Bắc giáp thửa số 32 dài 13,23m

Phía Tây Năm giáp thủ-a sổ 34 của ông Long, bà Thuận dài 13,22m

Vị trí, kích thước đất được xác định tại lô ký hiệu B theo trích đo bản đồ địa chính do Văn phòng đăng kv quyền sử dụng đất thành phố Vũng Tàu đo vẽ ngày 13/05/2011 (kèm theo bản án).

Ông Long, bà Thuận được quyền sở hữu toàn bộ nhà, công trình, vật kiến trúc trên diện tích đất nêu trên gồm: Một nhà cấp 3 diện tích xảy dựng 56,06m2 và một nhà cấp 4 diện tích 28,3m2. Nhà đất tọa lạc tại số 01B đường Thủy Vân, phường 2, thành phố Vũng Tàu. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Thuận bồi hoàn cho ông bà Nguyễn Văn Thu, Võ Thị Tuyết là 240.467.000đồng là giá trị sử dụng còn lại của vật kiến trúc dược xây dựng trên đất tranh chấp và số tiền hỗ trợ di dời là 30.000.000đồng. Tổng cộng hai khoản là 270.467.000 đồng.

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Văn Thu, bà Võ Thị Tuyết về việc đòi công nhận cho gia đình ông bà được quyền sử dụng 82m2 đắt thuộc thửa sổ 26509.50 (30+91) tờ bản đồ sổ 50 phường 2 thành phổ Vũng Tàu.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về quyền lưu cư, chi phí đo vẽ và án phí của các đương sự.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Văn Thu có đon đề nghị xem xét bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 20/2014/KN-DS ngày 08/01/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 37/2012/DS-PT ngày 10/07/2012 của Tòa án nhân dân Bà Rịa — Vũng Tàu, đề nghị Tòa Dân sự - Tòa án nhân dân tối cao xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DS-ST của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao có ý kiến đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Về tố tụng: Hộ gia đình ông Nguyễn Văn Thu gồm ông Thu và vợ là bà Võ Thị Tuyết cùng 03 người con là chị Nguyễn Thị Bích Thảo, sinh năm 1984, chị Nguyễn Thị Thùy Linh, sinh năm 1987 và anh Nguyễn Tuấn Anh, sinh năm 1992 (đều đã trưởng thành) cùng sinh sống trên nhà đất tranh chấp. Tòa án cấp sơ thấm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Nguyễn Văn Thu, bà Võ Thị Tuyết phải di dời đi nơi khác, giao trả lại diện tích đất tranh chấp cho ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận nhưng không đưa những người con của ông Thu, bà Tuyết vào tham gia tố tụng là thiếu sót.

Về nội dung:                                                                          

Năm 1983, ông Nguyễn Đình Long và bà Nguyễn Thị Thuận được thuê căn nhà số 138 (nay là số 01) đường Thùy Vân. thành phố Vũng Tàu với diện tích 36m2, không có công trình phụ. Năm 1986, ông Long đã làm đơn và được Công ty quản lý nhà đất cho phép xây dựng công trình phụ với diện tích 32m2(8mx4m).

Toàn bộ diện tích đất bao quanh căn nhà 138 Thùy Vân đều thuộc quyền quản lý của Nhà nước.

Căn cứ lời khai của ông Nguyễn Văn Thu và đối chiếu giấy chứng nhận hộ khẩu thường trú thì từ năm 1985 vợ chồng ông Nguyễn Văn Thu và bà Võ Thị Tuyết đã chuyển từ Nghệ An vào Vũng Tàu sinh sống và đăng ký thường trú tại 138 Thùy Vân.

Theo ông Nguyễn Đình Long thì từ năm 1983, sau khi được ký họp đồng thuê căn nhà 138 Thùy Vân thì vợ chồng ông đã trực tiếp khai phá, canh tác diện tích đất xung quanh và xây quán bán tạp hóa, còn ông Nguyễn Văn Thu khai vợ chồng ông trực tiếp khai hoang, sử dụng liên tục phần nhà đất tranh chấp. Do vậy, cần thu thập chứng cứ làm rõ thực tế ai là người trực tiếp khai hoang, trực tiêp quản lý, sử dụng phần diện tích đất tranh chấp. Theo sổ đăng ký nhân khẩu thưòng trú thì năm 1994, ông Nguyễn Đình Long mới nhập hộ khẩu thường trú tại 138 Thùy Vân.

Tại “Giấy chứng nhận đã đăng ký đất đai” số 1112 ngày 05/12/1991 của Ủy ban nhân dân phường 2, thành phố Vũng Tàu có nội dung thể hiện ông Nguyễn Đình Long, thường trú tại 138 Thuỳ Vân, hộ gồm 10 người đã đăng ký sử dụng 495m2, cần làm rõ 10 nhân khẩu đã đăng ký sử dụng đất đai gồm những ai, có vợ chồng ông Nguyễn Văn Thu, bà Võ Thị Tuyết và những người con của ông Thu, bà Tuyết hay không.

Theo Đơn xin mua nhà thuộc sở hữu nhà nước ngày 17/10/1988 của ông Nguyễn Đình Long có kê khai danh sách nhũng người ở trong nhà thể hiện có cụ Nguyễn Thị Đíu - mẹ vợ ông Long. Tại Phiếu kiểm tra tình trạng nhà ngày 04/04/1990 của Sở xây dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, phần III — Kiểm tra người đủ tiêu chuẩn mua nhà có ghi: “Nguyễn Thị Đíu - tiêu chuẩn liệt sỹ”. vấn đề này cần phải xác minh làm rõ, trong toàn bộ diện tích nhà, đất mà hộ ông Nguyễn Đình Long được hóa giá, có bao nhiêu diện tích mà cụ Nguyễn Thị Đíu được quyền sở hữu, sử dụng. Neu như cụ Nguyễn Thị Đíu được sở hữu, sử dụng một phần diện tích nhà, đất nói trên thì những người thừa kế của cụ Đíu có ý kiến gì về vấn đề này.

Việc ông Nguyễn Văn Thu dỡ nhà cấp 4 xây dựng nhà cấp 3 kiên cố vào năm 1999 ông Nguyễn Đình Long và bà Nguyễn Thị Thuận đều biết và đồng ý về việc xây dựng này. Quá trình quản lý, sử dụng nhà, ông Nguyễn Văn Thu đã trực tiếp ký hợp đồng cung cấp nước đứng tên riêng ông Thu. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không làm rõ quá trình cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Đình Long và bà Nguyễn Thị Thuận, địa phương có biết việc vợ chồng ông Nguyễn Văn Thu, bà Võ Thị Tuyết thực tế đã xây dựng nhà và sinh sống trên diện tích đất tranh chấp hay không. Ngoài ra, cần phải xác minh chỗ ở khác của gia đình ông Nguyễn Văn Thu. Trong trường hợp gia đình ông Nguyễn Văn Thu không có chỗ ở nào khác nếu Tòa án xác định diện tích đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận thì cần ổn định chỗ ở cho gia đình ông Nguyễn Văn Thu nhưng buộc hoàn lại giá trị quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Đình Long, bà Nguyễn Thị Thuận.

Do thu thập và đánh giá các chúng cứ trong vụ án chưa đầy đủ nên việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiên yêu cầu của nguyên đơn là chưa có căn cứ vũng chắc.

Do đó, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị hủy Bản án dân sự phúc thẩm sổ 37/2012/DS-PT ngày 10/07/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DS-ST ngày 30/03/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để giải quyết lại vụ án từ cấp sơ thẩm là có căn cứ, nên cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ khoản 2 Điều 291, Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 37/2012/DS-PT ngày 10/07/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DS-ST ngày 30/03/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thuận, ông Nguyễn Đình Long với bị đơn là ông Nguyễn Văn Thu, bà Võ Thị Tuyết;

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 229/2014/DS-GĐT về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án