QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 230/2014/DS-GĐT NGÀY 10/06/2014 VỀ  VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 10 tháng 6 năm 2014, tại trụ sở Cơ quan thườnẹ trực Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam mở phiên tòa giám đốc tham xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất ” giữa các đương sự:

Nguvên đơn: ông Lê Văn Tài, sinh năm 1956.

Trú quán: ấp Phước Tiên, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Văn Lang, sinh năm 1954.

Bị đơn:

1. Bà Trịnh Thị Tuyết, sinh năm 1950.

2. Ông Trần Văn Mạnh, sinh năm 1959.

Cùng trú quán: ấp Phước Tiên, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp.

NHẬN THẤY:

Theo đơn khởi kiện và nhũng lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lê Văn Tài (do ông Lê Văn Lang đại diện ủy quyền) trình bày:

Vào năm 1991 - 1992, ông được ủy ban nhân dân xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp cấp cho phần đất diện tích 11.173m2. Ngày 17/03/1993, ông Tài được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 108, tờ bản đồ số 01. Khi ông Tài được cấp đất thì trước đó bà Trịnh Thị Tuyết và Trần Văn Mạnh đã được cấp hai phàn đất liền kề. Do thửa 108 là đất gò cao, không có đường nước vào nên không ai sử dụng nên ông Tài mới đăng ký và được cấp đất. Ông Lê Văn Tài canh tác 1 vụ lúa, do không có đường nước nên ông không canh tác nữa. Đến năm 1996, Nhà nước múc kênh, dẫn nước vào đồng, ông canh tác trở lại thì phát hiện ông Trần Văn Mạnh đã lấn chiếm của ông 3.092m2; bà Trịnh Thị Tuyết lấn chiếm 8.414m2 đất. Năm 1997, ông Tài kiện ra xã cho đến nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Mạnh và bà Tuyết phải trả cho ông diện tích đã lấn chiếm.

Năm 1997, ông Lê Văn Tài đã khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất. Toà án nhân dân huyện Tân Hồng ban hành Quyết định số 5/QĐĐC ngày 15/3/1999 đình chỉ giải quyết vụ kiện vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân huyện Tân Hồng. Sau đó, Tòa án đã thụ lý giải quyết lại. Bị đon ông Trần Văn Mạnh trình bày: năm 1989 - 1990, ủy ban nhân dân xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp thành lập đoàn công tác đi cấp đất và ông Mạnh đã được cấp phần đất diện tích 8.312m2 đất, đến năm 1993 được cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 98, tờ bản đồ sổ 1. Ông Mạnh không đồng ý trả lại đất theo yêu cầu của ông Tài vì phần đất ông đang sử dụng được cấp họp pháp, đã có giây chúng nhận quyền sử dụng đất và gia đình ông đã trực tiếp quản lý, sử dụng liên tục từ năm 1989 đến khi phát sinh tranh chấp.

Bị đơn bà Trịnh Thị Tuyết trình bày: Bà Tuyết cũng được Đoàn công tác của Ủy ban nhân dân xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp cấp đất vào năm 1989 - 1990 với diện tích là 13.047in2 và năm 1993, bà Tuyết đã được cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 97, tờ bản đồ số 1 và đã sử dụng đất liên tục ổn định từ khi được cấp đất cho đến thời điểm phát sinh tranh chấp nên không đồng ý trả đất theo yêu cầu của ông Lê Văn Tài.

Tại bản án dân sự SO’ thẩm số 25/2010/DS-ST ngày 08/6/2010 Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu đòi quvền sử dụng đất của ông Lê Văn Tài đối với bà Trịnh Thị Tuyết, ông Trần Văn Mạnh.

Bà Trịnh Thị Tuyết được tiếp tục sử dụng phần đất diện tích 84 Mm2, ông Trần Văn Mạnh được tiếp tục sử dụng phần đất diện tích 3.092m2, tọa lạc tại ấp Thị, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp (hiện trạng kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 25/02/2009 và sơ đồ đo đạc kèm theo).

Đề nghị ủy ban nhân dân huyện Tân Hồng thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lê Văn Tài, sổ 108, tờ bản đồ 01 cấp ngày 17/3/1993 để xem xét điều chỉnh thửa đất cho bà Trịnh Thị Tuyết, ông Trần Văn Mạnh với diện tích như trên theo quy định của pháp luật về đất đai.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền khảng cáo của các đương sự.

Ngày 17/06/2010, ông Lê Văn Tài có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẳm số 269/2010/DS-PT ngày 01/9/2010 Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp quyết định:

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lê Văn Tài. Sửa bản án sơ thẩm.

Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn Tài.

Buộc ông Trần Văn Mạnh phải trả lại 3.092m2, bà Trịnh Thị Tuyết phải trả 8.414m2 đất thuộc thủa 108, tờ bản đồ số 1, tọa lạc tại ấp Thị, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp cho ông Lê Văn Tài theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và sơ đồ đo đạc ngày 25/02/2010 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng. Đất hiện do ông Lê Văn Tài đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Trần Văn Mạnh và bà Trịnh Thị Tuyết có đơn đề nghị xem xét bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định sổ 90/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 27/08/2013 Viện Trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 269/2010/DS-PT ngày 01/9/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thấm nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao có ý kiến đề nghị Hội đồng giám đốc thấm chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Đất tranh chấp có diện tích 11.506m2 thuộc thửa 108, tờ bản đồ số 1, tọa lạc tại ấp Thị, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp được ủy ban nhân dân huyện Tân Hồng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn Tài ngày 17/3/1993 hiện ông Trần Văn Mạnh đang sử dụng 3.092m2, bà Trịnh Thị Tuyết đang sử dụng 8.414m2. Đất tranh chấp này có nguồn gốc là do năm 1991 - 1992 ủy ban nhân dân xã Thông Bình cấp khoảng 10-11 công cho ông Lê Văn Tài nhưng do đất gò cao chưa có nước, ông Tài vào canh tác không hiệu quả nên ông ngừng canh tác, đến năm 1996 có đường nước dẫn vào đất nên ông vào canh tác phát hiện ông Trần Văn Mạnh, bà Trịnh Thị Tuyết canh tác, nên tranh chấp từ đó đến nay. Lời trình bày của ông Lê Văn Tài là có căn cứ, bởi vì: đối với đất của ông Trần Văn Mạnh cũng canh tác không hiệu quả làm năm 1991,1992 làm một vụ đến năm 1993 cho anh Hết mượn làm nhưng cũng không hết diện tích, đến năm 1995 có đường nước ông mới sử dụng.

Việc Nhà nước cấp đất cho ông Lê Văn Tài được ông Huỳnh Văn Hận là Trưởng ban nông nghiệp xã lúc bấy giờ xác nhận năm 1991-1992 có diện tích đất còn lâm gò cây găng có lác không ai nhận đã cấp cho ông Tài. Đồng thời cũng phù hợp với lời khai của những người làm chứng cho ông Trần Văn Mạnh và bà Trịnh Thị Tuyết, cụ thể: Hai ông Lê Minh Hồng và ông Lê Minh Chuẩn xác nhận năm 1989-1990 đoàn cấp đất của xã Thông Bình có ông Lê Minh Hồng (Trưởng ban cấp đất của xã), ông Lê Minh Chuẩn (Phó ban nhản dân ấp lúc bấy giờ) đi cấp đất cho ông Mạnh 0,3ha. Sau đó một tháng cấp cho hộ bà Trịnh Thị Tuyết l,3ha (đất này cấp cho ông Mười Bé không nhận nên cấp cho bà Tuyết). Khi các ông cấp đất cho bà Trịnh Thị Tuyết, ông Trần Văn Mạnh xong các xác định còn diện tích đất gò chưa giao cho ai, sau đó các ông nghe nói giao chô ông Lê Văn Tài. Lời khai của những người làm chứng của ông Trân Văn Mạnh, bà Trịnh Thị Tuyết phù hợp với lời khai của ông Hận và lời khai của ông Tài. Hơn nữa, ông Tài đã được ủy ban nhân dân huyện Tân Hồng cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng đất ngày 17/3/1993, thửa 108, tờ bản đồ số 1, ấp Thị, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn Tài đúng quy định của pháp luật, điều này đã được Uy ban nhân dân huyện Tân Hồng xác nhận bởi công văn sổ 87/UBND-UB ngày 20/7/2009 “...... Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Vãn Tài được Hội đồng xét cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng đất của xã thống nhất khi đủ thủ tục trình ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất..... và trong quá trình xét cấp giấy chủng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn Tài không cố vụ việc tranh chấp giữa ông Tài, ông Mạnh, bà Tuyết xảy ra.......

Việc ông Mạnh và bà Tuyết cho rằng đất tranh chấp đã được ủy ban nhân dân xã cấp cho ông bà vào năm 1989-1990 là không có cơ sở, bởi vì: Khi cấp đất cho ông Mạnh và bà Tuyết. Ông Hồng và ông Chuẩn đều xác định là còn một khoảng đất gò trống chưa giao cho ai, ông Hận xác nhận là khoảng năm 1991- 1992 có giao cho ông Tài khoảng 10-11 công đất gò. Hơn nữa, diện tích đất tranh chấp là thửa 108 trong khi đất của ông Mạnh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thửa 98, đất bà Tuyết là thửa 97. Bà Tuyết khai tại bản khai năm 1997-1998 là phần đất bà được cấp có tứ cận phía Nam giáp đất ông Xê, phía Tây giáp đất ông Liêm, phía Bắc giáp đất ông Mạnh và phía Đông giáp đất ông Tua nhưng tại bản tự khai bà Tuyết lại khai phần đất của bà có tứ cận: Phía Đông giáp đất ông Xê, phía Tây giáp đất ông Mạnh, phía Nam giáp đất ông Liêm và phía Bắc giáp đất ông Tưa. Như vậy, lời khai của bà Tuyết không thống nhất. Mặt khác, ông Chuẩn xác nhận việc cấp đất cho bà Tuyết giáp phần đất hoang hóa và ông Hồng cũng xác định là cấp đất cho bà Tuyết không giáp đất của ông Liêm, chỉ có phần đất mà bà Tuyết bao chiếm của ông Tài mới giáp với ông Liêm. Đối với ông Mạnh, ông Mạnh được cấp đất cùng thời điểm với ông Tài và bà Tuyết. Vào năm 1995, ông Mạnh mới canh tác đất. Như vậy, khi được cấp đất thì ông Mạnh không có canh tác. Tại bản tự khai của ông Mạnh khai phần đất của ông có tứ cận: Phía Tây giáp đất ông Liêm, phía Đông giáp đất ông Chơn, phía Bắc giáp đất ông Khen và phía Nam giáp đất bà Tuyết nhưng trong biên bản lấy lời khai năm 1997 ông Khai rằng phía Đông giáp đất ông Liêm, phía Tây giáp đất Ông Trân, phía Nam giáp đất ông Khen và phía Bắc giáp với đất bà Tuyết. Lời khai của ông không thống nhất. Mặt khác, lời khai của ông Chuẩn cho rằng phía Nam phần đất cấp cho ông Mạnh giáp với phần đất hoang hóa và ông Hồng cũng xác định đền này.

Công văn số 196/UBND.NC ngày 26/5/2010 của ủy ban nhân dân huyện Tân Hồng xác nhận việc cấp đất cho ông Tài sai đối tượng vì đất đã được cấp cho ông Mạnh và bà Tuyết là không có cơ sở, bởi vì: Theo lời khai của ông Hồng, ông Chuẩn là người làm chứng việc cấp đất cho ông Mạnh và bà Tuyết X đều xác định khoảng năm 1989-1990 khi họ cấp đất cho ông Mạnh và bà Tuyết xong thì còn diện tích đất gò chưa cấp cho ai. Ông Hận xác định còn diện tíchđât gò không ai sử dụng đã cấp cho ông Tài khoảng năm 1990-1994 là phù hợp với lời khai của ông Hồng, ông Chuẩn. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tài, ông Mạnh, bà Tuyết cùng ngày 17/3/1993 nhưng mỗi người mỗi thửa khác nhau, ông Mạnh thửa 98, bà Tuyết thửa 97 còn ông Tài thửa 108 nên không thể có việc cấp đất cho hai ông bà trên ghi thiếu thửa 108 được.

Từ những phân tích trên, Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Tài sửa án sơ thấm là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm này là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 90/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 27/8/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị hủy bản án dân sự phúc thẩm sổ 269/2010/DS-PT ngày 01/9/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 230/2014/DS-GĐT về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án