QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 239/2014/DS-GĐT NGÀY 11/6/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN BỊ XÂM PHẠM

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 05/3/2014, tại trụ sở Cơ quan thường trực Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam, mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Bửu Châu

Địa chỉ: ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn: Ông Nguyễn Bửu Lộc

Địa chỉ: ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Trọng Toàn; Địa chỉ: ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

2. Ông Mai Thanh Hải

3. Bà Nguyễn Thị Liêng

4. Chị Hồ Thu Nương

5. Bà Nguyễn Thị Nghiệp

Cùng địa chỉ: ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

6. Anh Nguyễn Văn Long; Địa chỉ: ấp Thạnh Bình, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

NHẬN THẤY

Nguyên đơn ông Nguyễn Bửu Châu trình bày:

Khoảng tháng 9 năm 1994, ông Nguyễn Bửu Châu có thỏa thuận và lập hợp đồng (không có xác nhận của địa phương) với em ông là Nguyễn Bửu Lộc chuyển nhượng 3000m2 đất lúa tọa lạc Thạnh Hưng, Thạnh Trị với giá 10 chỉ vàng 24k, giao vàng tại nhà ông Châu, việc giao vàng không có giây tờ, có bà Phan Tuyết Mai (mẹ ông- đã chết) chứng kiến. Hiện nay phần đất này do ông Nguyễn Trọng Toàn đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phân đất chuyển nhượng bao gồm 02 thửa. 01 thửa do Lộc đứng tên trên giấy tay sang nhượng ngày 08/9/1994 chỉ ghi diện tích 15 sào, 01 thửa do ông Mai Thanh Hải sang nhượng cho ông Lộc, ông Lộc giao cho ông Châu giây tay do ông Lộc chuyển nhượng đất từ ông Mai Thanh Hải ngày 27/06/1992. Từ năm 1994 đên nay ông Châu là người trực tíêp sử dụng đât và đóng thuê (ông đưa tiền cho con rể là Nguyễn Văn Long giao cho ông Lộc đóng thuế). Quá trình sử dụng đất ông Châu không đi đăng ký kê khai quyền sử dụng đất. Ông Châu và ông Lộc thoả thuận khi nào ông Lộc làm thủ tục chuyên nhượng phân đât ông Lộc nhận chuyển nhượng từ Mai Thanh Hải thì ông Lộc sẽ hoàn tất việc sang nhượng 3000m2 đất lúa nói trên cho ông Châu tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên ông Châu không biết thời điểm ông Lộc đăng ký kế khai phần đất nêu trên. Đến năm 2009, ông Châu phát hiện ông Nguyễn Trọng Toàn cho người khác mướn phần đất trên nên khởi kiện. Ông Châu yêu cầu ông Lộc tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 3000mđất lúa tọa lạc tại ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị cho ông Châu.

Bị đơn ông Nguyễn Bửu Lộc trình bày:

Ông không thỏa thuận chuyển nhượng 3.000m2 đất lúa như ông Châu trình bày. Thực tể, năm 1994, ông chỉ chuyển nhượng phần đất lúa điện tích 1.500m2 do ông nhận chuyển nhượng từ ông Mai Thanh Hải vào năm 1992 cho ông Toàn. Do ông Toàn không ở địa phương nên bà Phan Tuyết Mai (mẹ ông) nhờ ông Châu đứng tên trên giấy tay chuyển nhượng ngày 08/9/1994 và ông giao giấy tay chuyển nhượng đất với ông Hải cho ông Châu quản lý. Giá chuyển nhượng 1.500m2 đất lúa là 10 chỉ vàng 24k do mẹ ông giao cho ông có em ruột là ông Nguyễn Hoàng Cơ chứng kiến. Ồng không nhận 10 chỉ vàng do ông Châu giao. Việc ông Châu cho rằng ông có sang nhượng phần đất 1.500m2 thửa 2043 do ông đứng tên là không đúng vì phân đât này ông nhận chuyển nhượng từ ông Phạm Văn Tấn. Neu sang nhượng phần đất này cho ông Châu, ông đã giao giấy tay chuyển nhượng với ông Tấn cho ông Châu giữ. Do ông Toàn không ở địa phương nên mẹ ông là người trực tiếp sử dụng phần đất trên từ năm 1994 đến 1997. Thời gian này mẹ ông có cho người khác mướn. Từ năm 1997 đến năm 1999, ông Toàn về địa phương sinh sống nên trực tiếp sử dụng phần đất này. Từ năm 1999 đến 2008, ông Toàn cho con rể ông Châu là anh Nguyễn Văn Long mướn với giá 30 giạ lúa/1 năm. Đen năm 2009, ông Châu lấy lại đất cho người khác mướn nên ông Toàn không đống ý.

Do ông Toàn không có ở địa phương nên năm 2001 ông đi đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất luôn phần đất đã thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Toàn trước đây. Đen năm 2008, ông mới làm thủ tục tách bộ cho ông Toàn. Quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất cho ông và chuyển nhượng đất cho ông Toàn ông Châu không khiếu nại hay tranh châp. Ông không đồng ý với yêu cầu của ông Châu:

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Trọng Toàn trình bày: Ông Lộc trình bày là đúng sự thật. Năm 1994, ông có gởi tiền về nhờ mẹ chuyển nhượng đất từ ông Lộc. Ông có sử dụng đất từ năm 1997 đến năm 1999. Trước đó mẹ ông có cho người khác mướn. Ông có yêu cầu phản tổ yêu cầu ông Châu trả lại phần đất lúa diện tích 2.710,9m2thửa 2042 tọa lạc tại ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị do vợ chồng ông đứng tên và bồi thường do sử dụng đất của ông trong 3 vụ lúa năm 2009 là 60 giạ lúa = 5.400.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị Nghiệp (vợ ông Châu) trình bày: Đông ý với lời khai ông Châu và xác định vợ chồng bà có giao 10 chỉ vàng 24K (chuyên nhượng ruộng) cho ông Lộc nhận. Ông Mai Thanh Hải trình bày: Năm 1992, ông có chuyển nhượng 1.500m2 đất lúa thửa 2042 tọa lạc tại ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị cho ông Nguyễn Bửu Lộc. Hàng năm ông Lộc đưa tiền cho ông đóng thuế đên năm 2001. Ông không nhận tiền ông Châu đưa đóng thuê. Hai bên đã hoàn tât thủ tục chuyển nhượng. Ngoài ra ông không biết gì thỏa thuận giữa ông Châu và ông Lộc.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 224/2009/DSST ngày 27/8/2009, Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây đã quyết định:

“Đình chỉ yêu câu khởi kiện của ông Châu đôi với ông Lộc vê việc tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 2042 với tổng diện tích 2710,9m2 tọa lạc tại ấp Thạnh Hung, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Trọng Toàn. Buộc ông Nguyên Bửu Châu có nghĩa vụ trả cho ông Toàn, bà Hương phần đất lúa có diện tích 2710,9m2 tọa lạc tại ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang do ông Nguyễn Trọng Toàn và bà Hồ Thu Hương đứng tên giây chứng nhận quyền sử dụng đât (có tứ cận kèm theo)

Buộc ông Nguyên Bửu Châu có nghĩa vụ bồi thường cho ông Toàn 10 giạ lúa tương đương 700.000 đồng

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 01/9/2009, ông Nguyễn Bửu Châu có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thâm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 644/2009/DSPT ngày 23/11/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang quyết định:

“Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm sổ 224/2009/DSST ngày 27/8/2009 của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây”.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 192/2010/DSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây đã quyết định:

“Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Châu đôi với ông Lộc về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 2042 - 2043 với tông diện tích theo đơn khởi kiện 3.000m2 (diện tích thực tế 2.710.9m2 đến năm 2006 lập hồ sơ địa chính mới thành thửa 628 - 60 hiện nay nhập thành một thửa 2042) tọa lạc ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Tuyên bổ hợp dồng chuyến nhượng giữa ông Nguyên Bửu Châu và ông Nguyên Bửu Lộc là vô hiệu.

Hủy đơn nhượng ruộng giữa ông Châu và ông Lộc lập ngày 08/9/1994 do ông Lộc ký tên.

Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Trọng Toàn. Buộc Ông Nguyễn Bửu Châu và bà Nghiệp có nghĩa vụ trả cho ông Toàn, bà Hương phần đất lúa có diện tích 2710,9m2 (thửa cũ 2042 - 2043) đến năm 2006 lập hồ sơ địa chính mới thành thửa 628 - 60 hiện nay nhập thành một thửa 2042 tọa lạc tại ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang do ông Nguyễn Trọng Toàn và bà Hô Thu Hương đứng tên Giấy chứng nhận quyển sử dụng đất, có vị trí như sau:

Đông giáp đất ông Lê Vãn Hùng và đất bà Lê Thị Bạch Tuyết.

Tây giáp đất bà Võ Thị Vỡ và đất ông Nguyễn Văn Út.

Nam giáp kênh An Thạnh Thủy.

Bắc giáp đất ông Phan Thành Lập

Buộc ông Nguyễn Bửu Cháu, bà Nghiệp cỏ nghĩa vụ bôi thường cho ông Toàn 1.084 kg lúa (54,2 giạ) tương đương 4.878.000 đồng.

Thời gian thực hiện khỉ án có hiệu lực pháp luật”.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên phần án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 31/8/2010 ông Nguyễn Bửu Châu có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 166/2011/DSPT ngày 22/4/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang quyết định:

“Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyên Bửu Châu. Sửa một phần bản án sơ thẩm.

Tuyên hủy hợp đồng chuyến nhượng quyên sử dụng đát giữa ông Nguyễn Bửu Châu và ông Nguyễn Bửu Lộc lập ngày 08/9/1994.

Buộc ông Lộc trả cho ông Châu giả trị 10 chỉ vàng 24K tiên chuyên nhượng tương đương 3 7.000.000 đồng và bồi thường tương đương loi làm cho hợp đồng vó hiệu với số tiền 64.237.425 đồng, tong cộng 101.237.425 đông.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyên Trọng Toàn.

Buộc ông Nguyễn Bửu Châu và bà Nghiệp có nghĩa vụ trả cho ông Toàn, chị Hương phần đất lúa có diện tích 2710.9m2 (thửa cũ 2042 - 2043) đến năm 2006 lập hồ sơ địa chính mới thành thửa 628 - 60 hiện nay nhập thành một thửa 2042 tọa lạc tại ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang do ông Nguyễn Trọng Toàn và bà Hồ Thu Hương đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đât, cổ vị trí như sau:

Đông giáp đẩt ông Lê Văn Hùng và đất bà Lê Thị Bạch Tuyêt.

Tây giáp đất bà Võ Thị Vỡ và đất ông Nguyễn Văn út.

Nam giáp kênh An Thạnh Thủy.

Bắc giáp đất ông Phan Thành Lập”

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án và án phí theo quy định pháp luật.

Ông Nguyễn Bửu Lộc có đơn đề nghị giám đốc thẩm cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng ông có lỗi và tuyên bồi thường cho ông Châu là không đúng, thực tế ông chỉ bán 15 sào ruộng cho ông Toàn và nhờ ông Châu đứng tên trong họp đồng chuyển nhượng thay ông Toàn; ông không nhận vàng của ông Châu mà nhận từ mẹ ông 10 chỉ vàng do ông Toàn nhờ mẹ đưa dùm; sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông Châu không phải là người trực tiếp sử dụng, kê khai và đóng thuế đất, tiền thuế đất là do ông Lộc đưa tiền cho ông Mai Thanh Hải đóng từ năm 1994 đến nay; Khi ông Lộc được cấp sổ đỏ và sang tên cho ông Toàn từ năm 2001, ông Châu không tranh chấp.

Đề nghị hủy bản án phúc thấm của Tòa án nhân dân tỉnh tiền Giang và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị sổ 56/2014/KN-DS ngày 28/2/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 166/2011/DS-PT ngày 22/4/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thấm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 192/2010/DSST ngàỵ 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Ông Nguyễn Bửu Châu cho rằng trước tháng 9 năm 1994, ông có nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Bửu Lộc (là em của ông Châu) 3.000m2 đất trồng lúa tại ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang, gồm 02 thửa, thửa 2043 (cũ) do ông Lộc đứng tên và thửa 2042 (cũ) do ông Lộc nhận chuyển nhượng từ ông Mai Thanh Hải. Khi chuyến nhượng, ông Lộc đã ký “Đơn nhượng ruộng” ngày 08/9/1994 để chuyển nhượng thửa 2043 (cũ) cho ông và đưa cho ông tờ “Đơn xin nhượng đất ruộng gốc” ngày 27/6/1992 thể hiện việc việc chuyển nhượng đất giữa ông Hải và ông Lộc.

Ông và vợ của ông là bà Nguyễn Thị Nghiệp đã trả đủ giá trị chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 10 chỉ vàng loại 24K. Ông Lộc thỏa thuận khi nào ông Lộc làm xong thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng từ ông Hải sang cho ông Lộc thì sẽ tiếp tục làm thủ tục chuyển nhượng sáng cho ông. Đen năm 2009, ông phát hiện ông Lộc cho người khác thuê sử dụng đất nên khởi kiện yêu cầu ông Lộc tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đât cho ông.

Ông Nguyễn Bửu Lộc không thừa nhận chuyển nhượng 3.000m2 đất nêu trên cho ông Nguyễn Bửu Châu mà cho rằng năm 1994 ông chỉ chuyển nhượng 1.500m2 đất (thửa 2042 cũ) mà ông nhận chuyển nhượng của ông Mai Thanh Hải cho ông Nguyễn Trọng Toàn (là anh em của ông Châu và ông Lộc). Nhưng do anh Toàn đi vắng nên nhờ mẹ ông trả cho ông 10 chỉ vàng và nhờ ông Châu đứng tên là người nhận chuyển nhượng thay cho ông Toàn.

Ông không chuyển nhượng 1.500m2 đất (thửa 2043 cũ) do ông đứng tên quyền sử dụng cho ông Châu vì thực chât phân đât này do ông nhận chuyển nhượng của ông Phạm Văn Tấn nhưng chưa sang tên ông.

Xét, ông Nguyễn Bửu Châu cung cấp “Đơn xin nhượng đất ruộng gốc” ngày 27/6/1992 và “Đơn nhượng ruộng” ngày 08/9/1994 để cho rằng ông Nguyễn Bửu Lộc đã chuyển nhượng hai thửa đất nêu trên cho mình nhưng tại “Đơn xin nhượng đất ruộng gốc” ngày 27/6/1992 thể hiện việc việc chuyển nhượng đất giữa ông Hải và ông Lộc, còn “Đơn nhượng ruộng” ngày 08/9/1994 thể hiện ông Lộc chuyển nhượng cho ông Châu 15 sào đât ruộng tại hợp tác xã Thanh Hưng chứ không thể hiện vị trí, tứ cận thửa đât, sô thửa và giá trị chuyển nhượng quyền sử dụng đât. Ong Châu cũng không có chứng cứ nào để chứng minh vợ chông đã giao 10 chỉ vàng là giá trị chuyên nhượng hai thửa đất cho ông Lộc. Ông Châu cho rằng ông trực tiếp canh tác trên đât từ khi nhận chuyển nhượng cho đến năm 2009 và thực hiện đây đủ nghĩa vụ thuê với nhà nước. Tuy nhiên, các người làm chứng là những người sử dụng các phần đất liền kề với phần đất tranh chấp trình bày năm 1995, 1996 bà Phan Tuyết Mai (là mẹ của ông Châu và ông Bửu, ông Toàn) cho ông Trương Văn Phượng và bà Tuyến thuê đất; đến năm 1997-1999, ông Toàn trực tiếp canh tác; từ năm 1999 đến năm 2009 ông Toàn cho anh Nguyên Văn Long là con rể của ông Châu thuê đất để canh tác. Anh Nguyễn Văn Long cho rằng anh giúp cha vợ canh tác đất từ năm 1994. Tuy nhiên, tại thời diêm năm 1994, anh Long chưa lập gia đình với con gái ông Châu mà đến năm 2000 mới sống chung với con gái ông Châu. Ông Châu không có chứng cứ gì chứng minh là hàng năm có đóng thuế cho nhà nước. Tại Biên bản xác minh ngày 18/8/2009 thể hiện ông Châu không đứng tên sô bộ thuế. Ông Lộc không thừa nhận là có nhận tiền do ông Châu đưa để đóng thuế mà cho rằng hàng năm ông Lộc đưa tiền ông Hải để đóng thuế.

Ông Nguyễn Bửu Lộc không thừa nhận đã chuyển nhượng hai phần đất trên cho ông Châu. Đổi với 1.500m2 của thửa 2043 (cũ) mà ông Lộc cho răng ông nhận chuyển nhượng của ông Phạm Văn Tấn thì ông Lộc có lời khai thống nhất là ông cho mẹ ông sử dụng từ năm 1994. Còn đối với 1.500m2 của thửa 2042 (cũ) do nhận chuyển nhượng của ông Mai Thanh Hải thì ông Lộc có lời khai không thống nhất. Tại Tờ tự khai ngày 17/7/2009 và Biên bản hòa giải ngày 21/8/2009, ông Lộc trình bày năm 1994 ông chuyên nhượng cho ông Nguyên Trọng Toàn phần đât này với giá 10 chỉ vàng và lập giây tay ngày 08/9/1994, nhờ anh là Nguyễn Bửu Châu đứng tên giùm phân người mua và ông Lộc giao cho ông Châu giữ giấy chuyển nhượng từ ông Hải cho ông Lộc; đển năm 2008, ông Lộc tiếp tục chuyển nhượng 1.500m2 đất còn lại cho ông Toàn và làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng 3.000m2 đất (qua đo đạc thực tế là 2.710,9m2 đất) hiện ông Toàn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, tại Biên bản hòa giải ngày 01/02/2010, ông Lộc lại trình bày năm 1994, ông chuyên nhượng cho mẹ ông là bà Phan Tuyêt Mai phần đất mà ông đã nhận chuyển nhượng từ ông Hải. Người làm chứng là ông Nguyễn Hoàng Cơ (là anh em ruột với ông Châu, ông Lộc và ông Toàn) cho rằng năm 1994 ông Toàn mua phần đất mà ông Lộc nhận chuyên nhượng của ông Hải với giá 10 chỉ vàng. Tại Tờ tự khai ngày 17/7/2009, ông Nguyễn Trọng Toàn trình bày năm 1994 ông nhận chuyển nhượng đất ruộng từ ông Lộc với giá 10 chỉ vàng nhưng không trình bày rõ diện tích là bao nhiêu.

Tại Biên bản hòa giải ngày 01/02/2010, sau khi nghe ông Lộc trình bày là ông Lộc chuyển nhượng cho bà Phan Tuyêt Mai 15 sào đât do trước đây ông Lộc nhận chuyển nhượng của ông Hải và cho bà Mai mượn 15 sào đất còn lại thì ông Toàn trình bày “Năm 2008, anh Lộc có chuyến nhượng cho tôi phần đất trên và năm 2009 tôi đứng tên GCNQSDĐ và từ năm 2007 tôi tiếp tục cho anh Long mướn và hàng năm đong lúa cho tôi cúng gio... ”. Như vậy, ông Toàn trình bày không rõ ràng về việc năm 1994 ông trả cho ông Lộc 10 chỉ vàng để nhận chuyên nhượng phần đất nào; năm 2008 ông Toàn nhận chuyển nhượng phần đất nào của ông Lộc* tại sao có việc năm 2008 ông nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Lộc nhưng lại cho ông Long mướn đất từ năm 2007?

Từ những phân tích trên cho thấy, để có căn cứ giải quyết vụ án cần phải xác minh làm ,rõ quá trình sử dụng đất và đóng thuế từ năm 1994 đến năm 2009; có việc giao nhận vàng giữa vợ chồng ông Châu với ông Lộc hoặc giữa bà Mai với ởng Lộc hay không; lý do của việc giao nhận vàng; nếu có việc giao nhận vàng giữa bà Mai với ông Lộc thì bà Mai là người trực tiếp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Lộc hay bà Mai là người đứng ra giao dịch giúp ông Toàn; thực chất ông Toàn nhận chuyển nhượng phần đất nào của ông Lộc, vào thời gian nào, giá trị chuyển nhượng là bao nhiêu?

Tuy chưa làm rõ những vấn đề nêu trên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã nhận định có việc ông Châu và ông Lộc ký họp đồng chuyển nhượng quyên sử dụng đât; Tòa án câp sơ thâm bác yêu câu khởi kiện của ông Châu, tuyên họp đồng vô hiệu, buộc vợ chồng ông Châu trả 2.710,9m2 đât cho vợ chồng ông Toàn, còn Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu, buộc vợ chồng ông Châu trả 2.710,9m2 đất cho vợ chồng ông Toàn, buộc ông Lộc trả 10 chỉ vàng 24K và tiền bồi thường chênh lệch giá cho ông Châu đều là chưa đủ căn cứ.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 1, 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 166/2011/DS-PT ngày 22/4/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang và Bản án dân sự sơ thẩm số 192/2010/DSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, bồi thương thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Bửu Châu với bị đơn là ông Nguyễn Bửu Lộc; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Trọng Toàn, ông Mai Thanh Hải, bà Nguyễn Thị Liêng, chị Hồ Thu Nương, bà Nguyễn Thị Nghiệp và anh Nguyễn Văn Long.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 239/2014/DS-GĐT về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án