QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 240/2014/DS-GĐT NGÀY 11/06/2014 VỀ VIỆC ​XIN LY HÔN

Ngày 11/6/2014, tại trụ sở Cơ quan thường trực Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam, mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án “Xin ly hôn” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê Văn Mung

Địa chỉ: ấp Láng Cùng, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Bà Nguyễn Kim Lãnh

Địa chỉ: ấp Láng Cùng, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Ngọc Thiễm; Địa chỉ: ấp cỏ Sướt, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau

2. Bà Nguyễn Ngọc Há; Địa chỉ: ấp Ông Muộn, xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau

4. Anh Lê Văn Giàu; Địa chỉ: ấp Láng Cùng, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước tỉnh Cà Mau.

5. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh huyện Cái Nước; Địa chỉ: khóm 2, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

6. Bà Tôn Thị Phượng; Địa chỉ: ấp cỏ Sướt, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau

7. Ông Lê Minh Chiến; Địa chỉ: ấp Lộ Xe, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau

8. Bà Đặng Thị Xuyến; Địa chỉ: ấp Láng Cùng, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước tỉnh Cà Mau.

9. Bà Võ Thúy Ái; Đại chỉ: ấp Ông Muộn, xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau

10. Ông Sử Văn Thiểu; Địa chỉ: ấp cỏ Sướt, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

11. Ngân hàng chính sách xã hội huyện Cái Nước; Địa chỉ: khóm 2, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

NHẬN THẤY

Ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh sống chung với nhau từ năm 1988 không có đăng ký kểt hôn. Đến năm 2009 ông Mung, bà Lãnh phát sinh mâu thuẫn dẫn đến không còn tình cảm nên ông Mung yêu cầu ly hôn với bà Lãnh.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Văn Giàu - sinh năm 1989 và Lê Thị Cầm - sinh năm 1995. Khi ly hôn bà Lãnh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Mung cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Quá trình chung sống vợ chồng tạo dựng được bao gồm:

1. Một căn nhà bán cơ bản, nhà chính và nhà phụ, ông Mung, bà Lãnh thống nhất giá trị còn lại của hai căn nhà là 50.000.000đồng;

2. Một phần đất có diện tích 20.000m2, trong đó có một phần do cha mẹ ông Mung chết để lại và một phần vợ chồng mua lại của người khác, toàn bộ diện tích đất nêu trên đều tọa lạc tại. ấp Láng Cùng, xã Thành Phú, huyện Cái Nước do ông Mung đứng tên trong quyền sử dụng đất;

3. Một phần đất có diện tích 3.888m2 tọa lạc tại ấp Láng Cùng, xã Thành Phú, huyện Cái Nước do vợ chồng mua lại của người khác hiện do ông Mung đứng tên quyền sử dụng đất. Ông Mung, bà Lãnh thống nhất giá trị phần đất này theo sang bán tại địa phương là 26.000.000 đồng/1.296m2

4. Một nên nhà có diện tích 216m2 tọa lạc tại xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau do ông Mung, bà Lãnh cùng đứng tên trong quyền sử dụng đất. Ông Mung, bà Lãnh thống nhất giá trị phần đất này là 150.000.000 đ.

5. 01 chiếc xe gắn máy hiệu Jupiter biển số đăng ký 69K3-5719, do ông Mung đứng tên trong giấy tờ xe và ông Mung đang quản lý. Ông Mung, bà Lãnh thống nhất giá trị còn lại của chiếc xe là 1 5.000.000đ,

6. Một chiếc ghe chở hàng bằng gỗ có sổ đăng kiểm S69- 18217-CN trọng tải 4,3 tấn và máy dầu, do bà Lãnh quản lý, ông Mung, bà Lãnh thống nhất giá trị còn lại của chiếc ghe là 10.OOO.OOOđ.

7. 70.000.000 đ vốn và 17.000.000 đ bán đường. Ông Mung cho rằng bà Lãnh đang quản lý số tiền trên. Bà Lãnh không thừa nhận có số tiền trên vì vợ chồng làm ăn bị thua lỗ hết.

8. Một phần đất ông Mung, bà Lãnh đang quản lý năm trong quỵ hoạch con để Lương Thế Trân đã được Hội đồng bôi hoàn giải phóng mặt bằng đến đo đạt và lập kế hoạch bồi hoàn nhưng giá trị bôi hoàn ông Mung, bà Lãnh không biết, chỉ biết diện tích đất bị thu hồi và được bồi hoàn là 2.045,5m2. Trong đó có 300m2 đất của ông Chiến do trước đây ông Mung đăng ký kê khai trùm lên phần đất của ông Chiến. Ông Mung, bà Lãnh thông nhât khi nhà nước công bổ giá đât được bôi hoàn thì có nghĩa vụ trả lại giá trị bôi hoàn cho ông Chiến và thống nhất sau khi phần đất nêu trên được bôi hoàn thì giá trị như nhà chính, nhà phụ và các công trình kiến trúc và cây trồng vật nuôi trên đất được bồi ông Mung, bà Lãnh tự chia đôi.

Về Nợ: Nợ do vợ chồng thống cùng nợ như sau:

1. Nợ Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Cái Nước 80.000.000 đồng;

2. Nợ bà Đặng Thị Xuyến 20 chỉ vàng 24k

3. Nợ chị Võ Thúy Ái 08(tám) chỉ vàng 24k.

Sau khi ly hôn ông yêu cầu chia đôi số nợ trên.

Vợ chồng ông Mung, bà Lãnh không thống nhất các khoản nợ sau:

1. Nợ con ruột là anh Lê Văn Giàu 170.000.000 đồng

2. Nợ bà Nguyễn Kim Phượng 22.000.000 đồng;

3. Nợ Ngân hàng chính sách huyện Cái Nước 9.000.000 đồng;

4. Nợ hụi chết của bà Lê Ngọc Thiểm 6.100.000 đồng;

5. Nợ hụi bà Nguyễn Ngọc Há 10.600.000 đồng,

6. Nợ hụi bà Tôn Thị Phượng 16.500.000 đồng;

7. Nợ hụi của ông Sử Văn Thiểu 1.000.000 đồng.

Sau khi ly hôn bà yêu cầu chia đôi phần nợ trên.

Ông Lê Văn Mung thì cho rằng đối với phần nợ trên ông chỉ thừa nhận có nhận tiền do anh Giàu đưa là 200.000.000 đồng, ông có làm biên nhận cho ông Khiết, ông đã đưa cho anh Giàu trả cho ông Khiết là 70.000.000 đồng, ông chỉ thừa nhận còn nợ lại của anh Giàu là 130.000.000đ và lãi theo như thỏa thuận trong biên nhận và ông chấp nhận trả cho ông Khiết, không chấp nhận trả cho anh Giàu.

Đối với số nợ bà Nguyễn Kim Phượng ông thừa nhận có vay bà Phượng nhưng chỉ còn nợ lại bà Phượng 2.000.000 đồng.

Ngoài ra về nợ hụi của bà Thiếm, bà Há, bà Tôn Thị Phượng và ông Sử Văn Thiểu ông hoàn toàn không biết và không chấp nhận trả.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:

Ông Châu Văn Nghị người đại diện theo ủy quyền của Chi nhánh ngân hàng NN &PTNT huyện Cái Nước trình bày: Vào ngày 20/5/2010 Ngân hàng Nông Nghiệp huyện Cái Nước có ký hợp đồng vay vốn với ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh, tổng số vốn vay của ông Mung và bà Lãnh vay của ngân hàng là 80.000.000đồng với lãi suất là 14,5%/năm. Nay ông Mung và bà Lãnh ly hôn ông yêu cầu ông Mung và bà Lãnh phải trả nợ cho Ngân hàng trước khi phân chia tài sản với số vốn là 80.000.000đồng và lãi theo qui định.

Bà Nguyễn Kim Phượng trình bày: Trước đây vào tháng 11/2007 bà có cho bà Lãnh và ông Mung mượn 7.000.000đồng, đến tháng 12/2007 cho mượn thêm 5.000.000 đồng và đến tháng 01/2009 cho mượn thêm 20.000.000đồng, nhưng đã trả được lO.OOO.OOOđồng, tổng 03 lần mượn ông Mung và bà Lãnh nợ bà là 22.000.000 đồng, nhưng không làm biên nhận nợ.

Sau khi ly hôn bà yêu cầu ông Mung và bà Lãnh phải có trách nhiệm trả cho bà 22.000.000 đồng đã mượn.

Bà Lê Ngọc Thiểm trình bày: Vào ngày 6/5/2008 bà có mở dây hụi 300.000đồng/tháng, có 38 chân. Bà Lãnh và ông Mung có tham gia một chân, đã hốt còn lại 14 chân hụi chết là 4.200.000đồng. Ngày 15/9/2007 bà có mở dây hụi 300.000đồng/tháng có 37 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia một chân, đã hốt còn lại 6 chân hụi chết là 1.800.000đồng. Tổng 05 dây hụi ông Mung và bà Lãnh còn nợ lại bà là ó.OOO.OOOđồng, nay bà yêu cầu ông Mung và bà Lãnh phải trả cho bà số nợ trên.

Bà Nguyễn Ngọc Há trình bày: Ngày 10/6/2008 bà có mở dây hụi 500.000đồng/tháng, có 35 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia 01 chân, đã hốt còn lại 12 chân hụi chết là 6.000.000đồng. Dây hụi thứ 02 ngày 15/7/2007: 300.000đồng/tháng có 32 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia một chân, đã hốt còn lại 02 chân hụi chết là 600.000đồng. Dây hụi thứ 03 ngày 20/08/2008: 500.000đồng/tháng có 27 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia một chân, đã hốt còn lại 02 chân hụi chết là 4.000.000đông. Dây hụi thứ 04 ngày 25/06/2009: 500.000 đồng/tháng có 35 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia một chân, đã đóng được 09 lần chưa hốt 4.500.000 đồng. Tổng cộng 3 dây hụi chết bà Lãnh và ông Mang nợ là là 600.000đồng, những trừ chân hụi sống mà bà Lãnh và ông Mung đã nộp chưa hổt là 4.500.000 đồng. Vậy bà Lãnh và ông Mung còn nợ lại bà là 6.100.000 đồng.

Bà Tôn Thị Phương trình bày: vào ngày 6/8/2007 bà có mở dây hụi 300.000 đồng/tháng có 36 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia 01 chân, đã hốt còn lại 03 chân hụi chết là 900.000đồng. Dây hụi thứ 02 ngày 10/6/2008: 300.000đồng/tháng có 37 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia một chân, đã hốt còn lại 14 chân hụi chết là 4.200.OOOđông. Dây hụi thứ 03 ngày 15/07/2008: 300.000 đồng/tháng có 37 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia một chân, đã hốt còn lại 15 chân hụi chết là 4.500.000đồng. Dây hụi thứ 04 ngày 25/03/2007: 300.000đồng/tháng có 36 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia một chân, đã hốt còn lại 10 chân hụi chết là 3.000.000đồng. Dây hụi thứ 05 ngày 30/10/2008 300.000đồng/tháng có 32 chân, bà Lãnh và ông Mung tham gia một chân, đã hốt còn lại 13 chân hụi chêt là 3.900.000đông. Tông 05 dây hụi ông Mung và bà Lãnh còn nợ lại bà là 16.500.000đông, nay bà yêu cầu ông Mung và bà Lãnh phải trả cho bà số nợ trên. Anh Lê Văn Giàu trình bày: Trước đây anh thây cha anh là ông Mung và mẹ anh là bà Lãnh làm ăn thất bại nên phải vay tiên bên ngoài với lãi suất 5%/tháng là quá cao nên anh đem số tiền mà anh dành dụm đưa cho cha mẹ anh vay. Vào ngày 20/7/2009 anh có đưa cho cha anh và mẹ anh là ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh 200.000.000 đông, nhưng anh không nói đây là tiền của anh mà nói đây là tiền của anh Trân Thanh Khiêt và kêu ông Mung viết biên nhận nợ cho ông Khiết. Ông Mung đã viêt biên nhận nợ cho anh với sổ tiền là 200.000.000 đồng với lãi suất là 1,5% thực ra thực ra tên Trần Thanh Khiết là không có mà do anh bịa ra vì thấy cha con cho vay mà viết biên nhận cho nhau thì kỳ. Việc anh kêu ông Mung làm biên nhận cho anh Trần Thanh Khiết để cho ông Mung và bà Lãnh có trách nhiệm trả nợ cho anh. Ông Mung và bà Lãnh đã nộp lãi được hết tháng 11 năm 2009 và đã trả vốn được 30.000.000 đồng, từ đó đến nay không đóng lãi và trả vôn cho anh. Nay ông Mung và bà Lãnh ly hôn anh yêu cầu ông Mung và bà Lãnh phải trả cho anh 170.000.000 đồng vổn và tiền lãi từ ngày 20/12/2009 đến nay theo quy định của pháp luật qui định.

Bà Đặng Thị Xuyến trình bày: Bà cho rằng vào năm 1998 bà có cho ông Mung, bà Lãnh mượn 20 chỉ vàng 24k, nay ông Mung và bà Lãnh ly hôn bà yêu cầu ông Mung và bà Lãnh phải trả cho bà 20 chỉ vàng 24k đã mượn.

Bà Võ Thúy Ái trình bày: Ngày 25/10/2007 bà có cho ông Mung và bà Lãnh mượn 08 chỉ vàng 24k, nay ông Mung, bà Lãnh ly hôn bà yêu câu ông Mung, bà Lãnh phải trả cho bà sổ vàng trên.

Ông Lê Minh Chiến trình bày: ông thừa nhận trong phân đât 2.045,5mcủa ông Mung, bà Lãnh được bồi hoàn có phần của ông là 300m2 do trước đây ông Mung đăng ký quyền sử dụng đất trùm lên phần đất của ông. Nay ông thống nhất với ông Mung và bà Lãnh khi nào Hội đồng bồi hoàn thì ông Mung và bà Lãnh có nghĩa vụ trả cho ông số tiền bồi thường tương đương với diện tích đất của ông là 300m2.

Ông Trịnh Thanh Nơi là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng chính sách huyện Cái Nước trình bày: Ngày 9/9/2009 bà Nguyễn Kim Lãnh và ông Lê Văn Mung có vay của ngân hàng 9.000.000đồng với lãi suất 0,65%/tháng, ông Mung và bà Lãnh có đóng lãi đầy đủ, nay ông Mung và bà Lãnh ly hôn ông yêu câu ông và bà phải trả cho Ngân hàng sô tiên vay là 9.000.000 đông và lãi suất theo qui định.

Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 92/2010/HNGĐ-ST ngày 22/9/2010, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau quyết định:

“Về hôn nhân: Không công nhận ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh là vợ chồng.

Về con chung: Bà Nguyễn Kim Lãnh tỉêp tục nuôi cháu Lê Thị Cẩm sinh năm 1995. Ông Mung không phải cấp dưỡng nuôi con, người không trực tiếp nuôi con cỏ quyền thăm nom con, không ai có quyên ngăn cản.

Về tài sản: ông Lê Văn Mung được chia 02 căn nhà (01 nhà chính và 01 nhà phụ), căn nhà bán cơ bản và các tài sản, các vật dụng trong gia đình và một phần đất tọa lạc tại ấp Láng Cùng, xã Thạnh Phủ, huyện Cái nước, tỉnh Cà Mau có diện tích cụ thể theo đo đạt thực tế là Ml,M2 = 153m; M2 M3 = 24,4m; M3,M4 =82,5m; M4,M15 = 56,2m; M15,M14 = 155,5m; M14,M13 = 52,3m; M13,M12 = 30m; M12,M11 = 09m; MU ,MỈ = 16,8m;r với tổng diện tích là 10,265m2 do ông Mung đứng tên trong quyền sử dụng đát, có vị trí như sau:

Hướng Đông giáp kỉnh xáng Lương Thế Trân M4,M15 = 56,2m.

Hướng tây giáp phần đất ông Nguyễn Văn Vinh M14,M13 =52,3m;

M3,M12 =30m; M12,M11= 09m; M11,M1 = 16,8m.

Hướng Nam giáp phần đất còn lại được chia cho bà Lãnh M1, M2 = 153m; M2,M3 = 24,4m; M3,M4 = 82,5m.

Hướng Bắc giáp phần đất của ông Nguyễn Hoàng Sa và ông Cao Văn Tùng

M15,M14 = 155,5m; M13,M12 = 30m (có sơ đồ kèm theo).

Ông Mung được chia 1/2 giá trị diện tích đất 3.888m2 tọa lạc tại ấp Láng Củng xã Thạnh Phủ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau do ông Mung đứng tên trong quyền sử dụng đất trị giả 39.000.000đông và được chia 1/2 giá trị phần đất 216m2 tọa lạc tại xã Lý Văn Lảm do ông Mung và bà Lãnh đứng tên trong quyển sử dụng đất trị giá 75.000.000 đồng.

Ngoài ra ông Mung được chia một chiêc xe máy hiệu Jupiter số máy 5B92013009, số khung RLCJ5B9207Y013009 biển sổ đăng ký 69k - 5719 hiện tại do ông Lê Văn Mung đứng tên trong giấv tờ xe và được chia 1/2 giá trị chiếc ghe chở hàng bằng vật liệu go có đăng kiêm S69 - 1 82 1 7 - CN với trong tải là 4,3 tẩn mảy dầu.

Bà Nguyễn Kim Lãnh được chia 1/2 giả trị căn nhà và phân đất tọa lạc tại ấp Láng Cùng xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau là 25.000.000 đồng và một phần đất theo đo đạc thực tế là M1,M2 = 153m; M2 M3 = 24,4m; M3M4 82,5m; M4,M5 = 41,6m; M5,M6 = 74,6m; M6,M7 = 30m; M7,M8 = 156,4m; M8,M9 = 25m; M9,M10 = 15,1 m; M10.M11 = 58,2m với tổng diện tích là 10,026m2 do ông Mung đứng tên trong quyền sử dụng đất. Bà Lãnh có quyền yêu cầu UBND huyện Cái Nước chuyển tên quyền sử dụng đất trên phần đất được chia là Ỉ0,026m2 do Ông Lê Văn Mung đứng tên trong quyên sử dụng cho bà Lãnh, phân đát có vị trí như sau:

Hướng Đông giáp với kinh xáng Lương Thế Trân M4,M5 = 41,6m;

Hướng Tây giáp với phần đất ông Hô Văn Hữu M10,M1 =58,2m.

Hướng Nam giáp phần đất ông Nguyên Văn Hạn, Lê Hoàng Chuyên

M5,M6 = 74,6m; M6 M7 = 30 m; M7,M8 = 156,4m; M8,M9 = 25m; M9, M10 = 15,1 m.

Hướng Bắc giáp với phần đất ông Mung được chia Ml, M2 = 153m;

M2, M3 = 24,4m; M3,M4 = 82,5m. (có sơ đồ kèm theo)

Đồng thời bà Lãnh được chia 216m2 đất tọa lạc tại xã Lý Văn Lâm do ông Mung và bà Lãnh đứng tên trong quyền sử dụng đất, bà Lãnh có quyền yêu cầu UBND thành phố Cà Mau chuyển tên quyền sử dụng đất trên phần đất được chia là 216m2 do ông Lê Văn Mung và bà Nguyên Kim Lãnh đứng tên cho riêng bà Lãnh.

Ngoài ra bà Lãnh được chia 3.888m2 đảt tọa lạc tại áp Lãng Cúng, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước bà Lãnh có quyên yêu câu UBND huyện Cái Nước chuyển tên quyền sử dụng đất trên phần đất được chìa là 3.888m2 do ông Lê Văn Mung đứng tên cho bà Lãnh. Phân đát có vị trí:

Hướng Đông phần đất ông Ngô Minh Dạng.

Hướng tây giáp phân đât ông Võ Hậu.

Hướng Nam giáp phần đất Cao Văn Dưa

Hướng Bắc giáp với phần đất ông Lâm Hoàng Toàn.

Bà Lãnh được chia chiếc ghe chở hàng bằng vật liệu go có so đăng kiểm S69 - 18217- CN với trọng tải là 4,3 tan và mảy dầu, hiện nay bà Lãnh đang quản lý và được chia giá trị 1/2 trị giá căn nhà (nhà chính và nhà phụ); 1/2 giá trị chiếc xe máy hiệu Jupiter số máy 5B92013009, sô khung RLCJ5B9207Y013009 biển sổ đãng ký 69K3 - 5719.

Bà Lãnh có trách nhiệm trả lại cho ông Mung 1/2 giá . trị phần đất 216m2 là 75.000.000 đồng; 1/2 giá trị phần đất 3.888m2 là 39.000.000 đồng; 1/2 giá trị chiếc ghe chờ hàng bằng vật liệu go có so đăng kiêm S69 - 18217-CN với trọng tải 4.3 tấn và máy dầu là 5 .000.000 đồng.

Tổng sổ tiền bà Lãnh phải trả lại cho ông Mung là 119.000.000 đông và toàn bộ tài sản mà ông Mung được chia khi án có hiệu lực pháp luật.

Ông Lê Văn Mung có trách nhiệm trà lại cho bà Lãnh 1/2 giá trị chiéc xe máy hiệu jupiter sổ máy 5B92013009, sô khung RLCJ5B207Y013009 biển số đăng ký 69K3 - 5719 là 7.500.000 đồng; 1/2 giá trị căn nhà (nhà chính và nhà phụ) là 25.000.000 đồng.

Tổng số tiền ông Mung phải trả lại cho bà Lãnh là 32.500.000 đồng và toàn bộ tài sản mà bà Lãnh được chia khi án có hiệu lực pháp luật.

Về nợ: Buộc ông Lê Văn Mung phải trả cho Ngân hàng Nông Nghiệp huyện Cái Nước 40.000.000đồng và lãi suất tưong ứng thời điềm thanh toán.

Trả cho ngân hàng chính sách huyện Cái Nước 4.500.000đông và lãi suât tương ứng với thời điểm thanh toán, trả cho ông Lê Văn Giàu 92.500.000 đồng, trả cho bà Lê Ngọc Thiẻm 3.050.000 đồng, trả cho bà Nguyễn Ngọc Há 5.300.000 đồng, trả ho bà Tôn Thị Phượng 8.250.000 đồng, trả cho ông Sử Văn Thiểu 750.000 đồng. Trả cho bà Đặng Thị Xuyên 10 chỉ vàng 24k. Trả cho bà Võ Thúy Ái 04 chỉ vàng 24k. Trả cho bà Nguyễn Thị Phượng 1.000.000 đồng.

Buộc bà Nguyễn Kim Lãnh phải trả cho Ngân hàng Nông Nghiệp huyện Cái Nước 40.000.000 đồng và lãi suất tương ứng với thời điêm thanh toán. Trả cho Ngân hàng chính sách huyện Cải Nước 4.500.000 đồng và lãi suất tương ứng với thời đỉêm thanh toán, trả cho Lê Vãn Giàu 92.500.000 đồng, trả cho ông Lê Ngọc Thiểm 3.050.000 đồng, trả cho bà Nguyễn Ngọc Há 5.300.000 đồng, trả cho bà Tôn Thị Phượng 8.250.000 đồng, trả cho ông Sử Văn Thiểu 750.000 đồng, trả cho bà Đặng Thị Xuyến 10 chỉ vàng 24k, trả cho bà Võ Thủy Ái 04 chỉ vàng 24k, trả cho bà Nguyễn Thị Phượng 21.000.000 đồng”.

Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về lãi suất chậm trả, án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.

Ngàỵ 28/9/2010 ông Lê Văn Mung có đơn kháng cáo yêu cầu xét xử lại đối với phần đất được cha mẹ cho trước thời kỳ hôn nhân, ông không đồng ý chia; Căn nhà là của cha mẹ ông không đồng ý chia; không đồng ý trả phần nợ hụi và sổ nợ 200.000.000 đồng.

Tại bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 08/2011/HNGĐPT ngày 21/01/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lê Văn Mung; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngày 21/3/2011, ông Lê Văn Mung có đơn đề nghị giám đốc thẩm đổi với bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm về việc chia tài sản chung và nợ chung với các nội dung:

1.  Việc phân chia đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng thẩm quyền theo pháp luật quy định.

2.  Đất đứng tên cá nhân sau ngày Luật hôn nhân gia đình có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn nhận định và công nhận tài sản chung.

3.  Người thế chấp là không có thực nhưng vẫn được công nhận việc cho vay là vi phạm nguyên tắc họp đồng vay theo quy định của pháp luật.

4.  Việc công nhận ông chơi hụi và buộc phải trả nợ hụi là không đúng..

Tại Quyết định kháng nghị số 16/2014/KN-DS ngày 18/01/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 08/2011/HNGĐ-PT ngày 21/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tôi cao xét xử giám đôc thâm hủy bản án hôn nhân và gia đình phúc thâm nêu trên và bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 92/2010/HNGĐ-ST ngày 22/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau vê phân quyêt định chia tài sản; giao hô sơ cho Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thâm lại theo đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh sổng chung với nhau từ năm 1988 nhưng không đăng ký kết hôn nên theo quy định của pháp luật thì không được coi là vợ chồng. Do đó, cần áp dụng các quy định của pháp luật về phân chia tài sản chung đê giải quyêt tranh châp giữa ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh.

1. Đối với các khoản nợ:

Đối với khoản nợ anh Lê Văn Giàu: Mặc dù, ông Lê Văn Mung cho rằng không vay nợ anh Lê Văn Giàu nhưng ông Lê Văn Mung thừa nhận ông và bà Nguyễn Kim Lãnh cùng nhận tiền từ anh Lê Văn Giàu và đã trả một phần nợ và lãi cho anh Giàu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Lê Văn Mung phải có trách nhiệm thanh toán một phần hai số nợ cho anh Lê Văn Giàu là có cơ sở.

Đối với khoản nợ 9.000.000 đồng của Ngân hàng chính sách huyện Cái Nước: mặc dù ông Mung không ký tên trong họp đồng vay nợ nhưng trong số vay vốn thể hiện ông là người đứng tên trong hàng thừa kê và số nợ này được hình thành trong thời kỳ chung sổng với bà Nguyễn Kim Lãnh. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thâm xác định đây là nợ chung và buộc ông Mung phải có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng là có căn cứ đúng pháp luật.

Đối với các khoản nợ của bà Lê Ngọc Thiểm, bà Nguyễn Ngọc Há, bà Tôn Thị Phượng và ông Sử Văn Thiểu theo các tài liệu trong hồ sơ thể hiện thực chất đây là những khoản nợ hụi và các chủ hụi chứng minh được việc ông Lê Văn Mung cùng với bà Nguyễn Kim Lãnh tham gia chơi hụi, ông Mung đóng tiền hụi chết cho chủ hụi. Bà Nguyễn Kim Lãnh xác nhận việc hốt hụi nhằm mục đích tiêu dùng trong gia đình. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định đây là khoản nợ chung và buộc ông Lê Văn Mung phải thanh toán một phần hai khoản nợ là có căn cứ.

2. Việc phân chia nhà, đất:

Theo Biên bản đo đạc, thẩm định tại chỗ ngày 06/8/2009 và Công văn số 31/PTNMT ngày 25/8/2010 của Phòng Tài Nguyên và Môi trường huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau thể hiện ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh sử dụng diện tích đất qua đo đạc thực tế là 20.29 lm2 tại ấp Láng Cùng, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Trong số 20.291m2 nêu trên thì ông Lê Văn Mung được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 14.127m2 đất, diện tích còn lại 6.164,lm2 ông Mung chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ông Lê Văn Mung thừa nhận trong sổ 14.127m2 đất thì ông và bà Lãnh nhận chuyển nhượng của ông Lê Văn Đen và ông Lê Văn Chiến 5.200m2 nên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm công nhận diện tích 5.200m2 đất này là tài sản chung của ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh là có căn cứ. Phân còn lại 8.927m2 ông Mung trình bày được chia riêng đê thờ cúng cha mẹ, còn bà Lãnh cho rằng bà và ông Mung được cho chung nhưng bà Lãnh không cung cấp đửợc chứng cứ để chứng minh. Xét, ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh chỉ sống chung với nhau chứ không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác định vị trí của 8.927m2 đất nêu trên, trên đất có nhà hay không, nếu có thì do ai xây dựng, trong khi ông Lê Văn Mung trình bày trên đất có càn nhà do cha mẹ ông xây dựng từ trước khi ông và bà Nguyễn Kim Lãnh chung sống. Mặt khác, tại Biên bản họp gia đình ngày 02/4/2009 chỉ thể hiện ông Lê Văn Mung được các anh em trong gia đình chia cho 8.927m2 đất và được giao nhà cửa do cha mẹ để lại để thờ cúng cha mẹ, chứ không thể hiện bà Nguyễn Kim Lãnh cùng được chia nhà, đất. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm công nhận 8.927m2 đất và nhà là tài sản chung của ông Lê Văn Mung và bà Nguyễn Kim Lãnh để chia đôi là chưa đủ căn cứ.

Đối với phần diện tích 6.164,lm2 còn lại, theo Công văn số 31/PTNMT ngày 25/8/2010 của Phòng Tài Nguyên và Môi trường huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau thê hiện cụ Nguyễn Thị út (mẹ của ông Mung) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1993. Bà Nguyễn Kim Lãnh không có chứng cứ nào đê chứng minh đã được cho diện tích đất này. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định 6.164,1 m2 đất này là tài sản chung của ông Lê Văn Mung, bà Nguyễn Kim Lãnh và chia đôi là không có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 1, 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Hủy bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm sổ 08/2011/HNGĐPT ngày 21/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm sổ 92/2010/HNGĐ-ST ngày 22/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau về phần quyết định chia tài sản; giữa nguyên đơn là ông Lê Văn Mung và bị đơn là bà Nguyễn Kim Lãnh và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 240/2014/DS-GĐT về việc xin ly hôn

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án